Alexandre De Rhodes

  • Uploaded by: Tran Phuc Hung
  • 0
  • 0
  • January 2021
  • PDF

This document was uploaded by user and they confirmed that they have the permission to share it. If you are author or own the copyright of this book, please report to us by using this DMCA report form. Report DMCA


Overview

Download & View Alexandre De Rhodes as PDF for free.

More details

  • Words: 50,247
  • Pages: 132
Loading documents preview...
g

n m

a Ffi

T a m

U S

ALEXANDRE DE RHODES

TƠỜNG TRÌNH VỀ NHữNG TIẾN TRIỂN ĐỨC TIN

TRONG XỨ ĐÀNG TRONG THUỘC MIÊN VIỄN ĐÔNG GỦ1 TỐI BÈ TRÊN CẢ DÒNG TÊN DO

CHA ALEXANDRE DE RHODES ĐƯỢC PHÁI TỚI NHỮNG KHU TRUYỀN GIÁO Ở CẮC xứ ĐÓ.

Paris Sebastỉen Cramoỉsy, Nhà in thong thường cua vua và Gabriel Cramoisy 1652

Mục Lục »<

Trích đặc ân của Vua ............................................................................. 4 Lời gỉới thiệu ......................................................................................... 5 Tường trình vê những tiến ừiển đức tin trong xứ Đàng Trong thuộc miền viễn đông gửi tới Bề trên cả dòng tên do cha Alexandre de Rhodes.................................................. 9 Tường trình về cái chết vinh quang của thày giảng Anrê tử đạo tiên khởi xứ Đàng Trong ngày 26 tháng 7 năm 1644 .............. 28 Tường thuật về cuộc đón tiếp long trọng thi hài chân phúc Anrê tiên khởi tử đạo xứ Đàng Trong tại thành phố Macao............... 37 Tường thuật về xứ Đàng Trong: những cơn bắt bớ tiếp theo.............. 41 Thư gửi cha Alexandre de Rhodes bị giam tù vì đức tin và là đồ đệ bất khuất của Đức Giêsu Kitổ ....................................... . 59 Dàng Trong dưới thời Nguyễn Phúc Lan (1635 - 1648 ) .................... 78 Tình hình giáo đoàn vào năm 1639 .................................................... 80 Tống Thị ~ ........................................................................................... 82 Hoàng tử Tôn Thất Khê ......................... ............................................ 86 Dà Minh Đức Vương Thái Phi ........................................................... 8 8 Bà thứ phi của chúa quá cố .............................. ............................ .... 89 Bà hoàng có họ gần với chứa .............................................................. 90 Bà sang trọng và rất đạo đức ................................................. ............ 91 Bà dì của chúa là bà Maria ................................ ................................. 92 Bà thân mẫu của chú nhà chúa ............................................................ 94 Bà Maria Bà dì của chúa, với các nữ tu dòng Phan người Tây ban nha ............................................................ 96 Nhà thờ của bà Maria bị phá đổ................. .................................. .... 97 Lời nhà chúa nhắn nhủ bà Maria

,ẻ... 100

Rửa tội cho mấy công chứa cháu của bà ................... . ..................... 101 Bào đệ của Nguyễn Phúc Nguyên ..................................................... 101 Bà Vương thái phi Maria qua đòfi........................... ........................ 104 Bà Mađalena vợ quan trấn thủ Phú Yên .......................... ........... ...106 ông trấn thủ Quảng Bình ...................................................................127

Trích đặc ân của Vua

Nhờ ơn và đặc ân của Vua ban tại Poitiers và có chữ kỹ của Vua trong buổi hội Cramoisy, ban phép cho Sebastien Cramoisy, thương gia hàng sách đã tuyên thệ ở đại học đưòng Paris và nhà in thông thưòng của Vua và của Hoảng Hậu, nhà tư sản và cựu phó thị trưởng thành phố Paris,

được in hoặc cho in một cuốn sách nhan đề TƯÒNG TRÌNH VỀ NHỮNG TIỀN TRIỂN ĐỨC TIN TRONG XỨ ĐÀNG TRONG và phép này trong thòi gian và khoảng gian là 10 năm liên tục; hạn cấm tất cả những nhà sách và nhà in, hoặc in hoặc cho in cuốn sách này, với lý do giả mạo hay thay đổi có thể làm được, và phạt tịch thu và bồi thưởng chiếu theo đặc ân này. Phép của cha phổ tỉnh Dòng Chúng tối Charles Lalemant, phó tỉnh Dòng Tên, tỉnh nước Pháp, đã cho phép ông Sebastien Cramoisy nhà in thông thường của Vua và Hoàng Hậu, nhà tư sản và cựu phó thị trưởng thành phố Paris, được in Những bản TƯỜNG TRÌNH VỀ XỨ ĐÀNG TRONG Làm tại Paris ngày 22 tháng 2 năm 1652.

5

Lời giớỉ thiệu

C

húng ta thường nói “Tường trình về Đàng trong” của De Rhodes, ấn hành tại Paris năm 1652, nhưng thực ra nhan đê cuốn sách bằng tiếng Pháp là: “Tường trình về những tiến triển đức tin ở vương quốc Đàng Trong thuộc mien Viễn Đông gửi tới cha Bê Trên cả Dòng Tên do cha Alexandre de Rhodes được phái tới những khu truyền giáo này 'ể" Về nội dung thì chỉ là bài tường trình về hoạt động cuối cùng và là lần thứ năm của De Rhodes ở Đằng Trong, nghĩa là từ đâu Mùa Chay, 31 tháng 1 năm 1644 tới mồng 9 tháng 7 năm 1645. De Rhodes đã viết bân tưởng tnnh tại Macao, ba tháng sau khi đã bị trục xuất khỏi Đàng Trong, tức ngày 16 thàng 10 năm 1645. Ông đã ghi rõ ngày tháng và ký tên rõ ràng như một bản tường trình chinh qui chúng ta thường thấy. Viết vào tháng 10 thì tới tháng 12 ngày 20 cùng năm ông lấy tàu trở về Âu Châu. Như vậy có thể nói là ông đã viết lúc còn nóng hổi các tin tức mà chính ông là kẻ làm nên và sống trong thời gian một năm rưỡi. Vào đầu bản tường trình, ông phác họa những công việc các thầy giảng đã làm trong khi ông rut vê Macao lần thứ bốn, rồi sau đó là các hoạt động của ông trong thời gian này. Chúng ta được biết sự có mặt của ông trong khắp cõi Đàng Trong, từ Đà Nẵng tới Hội An, lên cho tới ranh giới Đàng Ngoài tỉnh Bố Chính và lũy Trường dục ‘‘rất kiên cố, một thứ thành quách mà chúa Đàng Ngoài mối đây đã ba ĩân tấn công mà không vượt nổi”. Trong phủ chúa, ông lại gặp những khuôn mặt quen thuộc và thân thương là Bà Minh Đúc Vương thái phi và hoàng tử Khê con Bà. Ông cũng được tiếp xúc với cựu trấn thủ Phú Yên và phu nhân là công chúa Ngọc Liên lúc này lui về Quảng Nam. Ông cũng đi thăm giáo dân ở các tỉnh miền Nam như Quảng Ngãi, Qui Nhơn. Nhưng hai sự việc quan trọng đã xảy ra trong thòi gian này là việc Anrê thày giảng tiên khởi Đàng Trong tử đạo ngày 26tháng 7 năm 1644 va việc mấy nữ tu dòng họ Phan

6

bị nạn tàu giạt vào bờ biển Đà Nẫng vào mùa chay năm 1645. Cả hai sự việc đã được De Rhodes ghi chép và viết lại trong cuốn Hành Trình và Truyền giáo, ấn hành nãm 1653ề Về Anrê tử đạo, ở đây, ông đã viết về việc đón rước thi hài rất long trọng do các cha dòng Tên thành phố Macao tổ chức dưới sự chủ tọa của cha Gaspar d’Amaral. Riêng về việc cáo nữ tu dòng họ Phan, có vài chi tiết không có trong Hành Trình và Truyền giáo, thí dụ bức thư của Antonio de Santa Maria dổng họ Phan gửi cho ông đề ngày 16 tháng 2 năm 1645 tại Đà Nẵng. Bức thư thân thương làm sao, cảm động đến thế nào, lúc đó De Rhodes ở Qui Nhơn. Ngoài mối cảm tình thân mến giữa hai giáo sĩ làm việc xa quê hương đất tổ, ngoài những khó khăn nguy hiểm gặp nơi hoạt động còn có một tình một nghĩa tinh thần và thiêng liêng gắn bó giữa hai người. Vè thực tế, cũng theo bức thư thứ nhất naỳ, người ta được biết: chiếc tàu từ Macao khi trở về Manila thì bị bão đánh giạt vào bờ biển Đà Nẫng. Thế là theo luật xứ này, hết các của cải trong tàu đêu bị tịch thu và hành Jdiách có thể bị cầm tù. Trong thư thấy nói tới ba Tân người ta đến khám xét do lệnh của tòa án xứ này. Ngoài những mất mát do vụ bão biển, lại còn bị người ta đến tước đoạt và người ta còn đe dọa. “Viên tướng lãnh tối cao, theo họ gọi như thế, của nước này dẫn một toán lính tháp tùng tối, kẻ thì mang mã tấu lột trần, người thì vác súng hỏa mai với mồi đã châm lửa, thế rồi chính những ngưcá Đàng Trong cũng đến cho chúng tôi hay là để chém đầu tất cả chúng tôi”. Một mối sợ khác đó là nhà chúa nhất thiết đòi xem mặt các nữ tu. Các cha hết sức từ chối mà không được. Cũng trong việc này, chúng ta lại thấy hai nhân vật đã bắt đàu khá quen thuộc, đó là sự săn sóc và chăm nom các nữ tu người Tây của bà cựu trấn thủ Phú Yên lúc này đang ở Quảng Nam, và buổi hội ngộ rất cảm động của bà Minh Đức Vương thái phi với các nữxtu ngoại quóc. Trước khi từ biột bà đã xin các nữ tu cho bằ một bộ áo dòng của các bà để khi bà nhắm mắt lìa đời bà được liệm trong bộ áo dòng đó. Và các bà đã giữ lời hứa khi các bà trở vè Manila, ổ đây chúng ta sẽ có thể so sánh nhũng gì De Rhodes đã ghi lại lúc còn nóng hổi vào năm 1645 với những gì ông viết để lại cho xuất bản năm 1653.

7

Về điểm này chúng tôi tạm nói tới hai việc. Thứ nhất, ứong tường trình về Đàng Trong, ông viết về lễ giáng sinh năm 1645 tại nhà một cựu giáo dân Nicolas Hảo: “Cũng trong làng này tôi đã mừng lễ giáng sinh trong một nhà rộng lớn được trang trí tươm tất, nhà này thuộc về một người tên là Nicolas Hảo, một Kitô hữu kỳ cựu nhất, đã đưọc chịu phép rửa tội từ 25 năm nay đo cha Francesco Buzomi thuộc dòng chúng tôi và là người đầu tiên tới khu truyền giáo này năm 1615”. Nhưng trong Hành Trình và Truyền giáo, năm 1653, ông viết: “ở đây mối thật sốt sắng mừng đêm Chúa giáng sinh: nửa đẽm thanh vắng, tôi cứ tưởng như thấy mọi ánh sáng thiên đàng. Tôi không nói tới nguồi an ủi tồi nhận được ở đây, nhưng tôi quyết rằng trong những nhà thờ đẹp nhất, trong những bản nhạc hay nhất bên trời Âu, chưa bao giờ tôi thấy có gì tương tự, không ai thấy đưọc, chỉ người ta đã thưởng thức mới biết mà thôi”. Cái gì đã làm cho ỏng lý tưởng hóa, hoặc thêu dệt, hay cao hứng lên như thế, phải chăng là thời gian, là khoảng xa cách, lòng nhớ nhung, sự lắng đọng ưong tâm hồn. Thứ hai, lời ông viết khi từ biệt Đàng Trong mà ông biết chắc là không bao giờ còn ứở lại cái đất nước thân yêu: “Chúng tôi lên buồm từ hải cảng Hội An ngày mồng 9 tháng 7 năm 1645 và lòng tôi luôn luôn quyến luyến đất nước thân yêu này, trái tim tôi hình như muốn thoát ra khỏi lồng ngực để trở về kết hiêp với các bạn đồng sự nghĩa thiết hiện nay đang ở trong ngục và với tất cả các Kitô hữu tốt lành của tôi”. Thế nhưng khi nói về cũng một cuộc vĩnh biệt này trong Hành Trình và Truyền giáo nãm 1653 thì có một sự lâm li tha thiết vô cùng sâu sắc: “Đó là ngày mồng 3 tháng 7 năm 1645, thân xác toi rời bỏ Đàng Trong, nhưng linh hồn tôi thì không, cả Đàng Ngoài cũng không kém. Thực ra cả hồn cả xác tôi đêu ở cả hai nơi và tôi không nghĩ tôi có thể ròti bỏ mãi được”. Thật là nhông lòi bất hủ của một người đã hy sinh một phần lớn đời mình cho một đại sự. Như trên đã nói, De Rhodes viết bản tường trình này ngày 16 tháng 10 năm 1645 tại Macao, và ngày 20 tháng 12 cùng năm, ông lấy tàu trở về Âu Châu.

8

Hồng Nhuệ

9

TƯỜNG TRÌNH VÊ NHÚNG TIÊN TRIỂN ĐỨC TIN I Gửi tới Cha Bề trên Cả Dọng TRONG xứ ĐÀNG TRONG Tên.

Thưa Cha rất đáng kính, gay đâu bản tường trình này, tôi có thể nói được rằng tôi hết lòng dâng lên Cha lời Kinh Thánh: “ ơn phúc Thiên Chúa ban, đất đai sinh hoa trái.” Sau khi đã đổ rất nhiều ơn trên những miền Đông Phương, như tôi đã thấy tận mắt, sau khi đã săn sóc trồng trọt những đồng bằng rộng lớn, thì Thiên Chúa đã cho trổ sinh dồi dào hoa trái xứng đáng vói cõi Tròi. Bản tường trình này kể lại những bằng chứng trung thực vê vụ gặt xung túc mà Chúa mùa thu hái lớn lao đã chúc phúc công lao của các thợ lam lũ trong hai năm 1644 và ỉ645. Người ta thấy có tới tám hay chửi nghìn và hơn nữa lương dân trở lại đạo. Còn những Kitô hữu cũ thì sống thánh thiện và trong sạch theo đường trọn lành phúc âm, đến nỗi coi như hoàng kim thời đại của Giáo hội nguyên thủy tái sinh và tái phát triển trong đời sống họ: bởi vì có nhiều người kiên trì làm các vỉệc đạo đức đến nỗi họ nguyện ngắm suốt ngày thâu đêm, người khác thì nhiệt thành chịu các phép bí tích xưng tội và rước lễ, họ rất vất vả ưẩy đi từ những nơi xa tới năm mươi dặm để được chịu một lằn.

10

Nhiều người còn tỏ ra rất khinh chê của cải trần gian và thóat ly hoàn toàn các thứ vui xác thịt, làm cho hai trang trí giàu sang nhất của ơn thánh là đức nghèo khó Phúc âm và đức khiết tinh được nẩy nở thành đóa hoa ữang trí rất đẹp ở xứ này, nơi mà sự thờ ngẫu tượng, tính biển lận và thói dâm đãng hoành hành tò biết bao thế kỷ nay.1 Thật ra người ta có thể nổi, ừong giáo đoàn phôi thai này, hết các tín đồ chỉ có một lòng một dạ, rất thương yêu nhau, đến nỗi ngưòi ta thấy những kẻ cao sang, những vị quan, các viên chức của nhà nước cũng hạ mình làm những việc hèn về bếp núc, ở bệnh xá để giúp kẻ đồng bang trong lúc cần thiết.2 Sau cùng lòng yêu mến sự hãm mình và cây giá đức Giêsu Kitô đã chiếm đoạt tâm hồn các Kitô hữu đên nỗi tất cả những thú vui quí nhất, tất cả những ưa thích của họ là được chịu xỉ nhục, bị tịch thu, chịu các vết tích hèn hạ, gông cùm, tù tội, tra tấn, chết vì xưng đức tin, và ngay khi vừa mứi mở cửa tòa án thì đã thấy họ kéo nhau từng trãm tới trình diện quan tòa, và đau khổ nhất của tôi là phải kìm hãm họ trong những ao ước lành thánh, trong những khát vọng chịu tử đạo, Khi đọc bản tường trình này và bản tiếp sau, vì sự xa cách gần như vô hạn, sự giao thông cũng bất an, làm cho tới Âu Châu quá trễ thì sẽ thấy hiển nhiên sự thật về nhân đức của giáo đoàn mới mẻ này. Và để vào đề, tôi xin thưa với Cha rằng sau khi đã làm việc một thời gian ở các khu truyền giáo Đàng Trong, thì b'ê trên truyền cho tôi phải rut lui. Tôi đã bỏ xứ này vào cuối tháng 7 năm 1643, nhưng vì sự vắng mặt quá lâu của tôi làm tổn thương các công việc của Giáo hội phôi thai này hoặc ít ra làm ngừng sự tiến triển tốd đây rất tốt đẹp, nên tôi đã làm hết sức để trở lại vào mùa chay năm 1644? Tôi đã đi tàu người Bồ, họ đến buôn bán ở bờ biển xứ này. Thiên Chứa đã xếp đặt việc tồi đến một cách đặc biệt để giúp ích cho các Kitô hữu, bởi vì có hai thầy giảng danh tiếng nhất, tiếng xứ này gọi là thày, một người tên là Inhaxu, trước kia đã làm quan, một trong những viên quan thcd danh nhất và giỏi giang nhất ưong phủ chúa; người thứ hai là Đamaso: sau khi chu toàn chức vụ hữu ích thì cả hai đều gặp nhau ở nơi tôi, để nhận mệnh lệnh làm công việc mới. Inhaxu thì được lệnh đi thãm các Kitô hữu trong phủ và những miền thuộc phía Bắc cho tới biên giới Đàng Ngoài, xứ này ăn tới phía Tây, giáp

11

với Đàng Trong; Đamasô thì được phái tới những người ở về phía Nam cho tới Phú Yên và gần biên giới Chàm, rất rộng lớn, chạy dài về phía Đông xứ này. Trước khi hai người ừẩy đi thì mười thày khác, trước đây ít lâu, đã khấn tợ nguyện truyền bá Phúc âm, nay hội nhau ữong nhà chúng tôi ở Đà Nẵng, nhà này năm ngoái, trong chiến tranh tàn phá, đã bị nhiều toán lính chiếm đóng, nay rất tồi tàn và hầu như đổ nát. Các thày bỏ hết các việc để khởi công sửa chữa lại để cho các cha, ba hay bốn tháng sau sẽ tới ở, có nhà tươm tất và gọn gàng để thừa hành chức vụ. Cống việc không phải là nhỏ, bỏi vì các thày phải vào tận một khu rừng khá xa để lấy gỗ, nơi đây độc nước chưáng khí, hầu như mọi người đều ngã bịnh nặng và có mấy thày gần chết. May mà Thiên Chúa cho tất cả đều được qua khỏi đé có thể tiếp tục và hoàn thành công việcề Inhaxu đã góp công khống nhỏ vào việc chữa chạy cho các bạn đồng sự. Bởi vì ngoài các ơn khác thày nhận được từ noi Thiên Chúa, kể từ khi chịu phép rửa tội, thày còn được ơn chữa bệnh một cách rất lạ lùng. Thày biết các bệnh, tuy không bao giờ học về y khoa, thày còn biết bốc thuốc thích hợp để có những hiệu quả rất tốt. Sau ba tháng vừa để sửa xong căn nhà, vừa để hồi phục sức khỏe thì Đamasô bắt tay làm phận sự tôi đã chỉ định, có mấy thày khác phụ vào. Hiệu quả rất dồi dào, do khôn khéo của thày, thẩy dã nhóm lửa nhiệt thành nơi các Kitô hữu và thày còn rửa tội được cho hai trăm chín mươi ba tân tòng đã sẵn sàng và

cho hoãn một số ít cũng xin chịu phép bí tích, để cho họ được chuẩn bị chu đáo hơn, thày căn dặn họ học giáo lý đạo Kitô cho tới khi có một trong số các cha sẽ trở lại. Trong những người thày rửa tội ở một nơi gọi là Qui Nhơn, thì có vợ một thày sãi hay thày của đạo Phật, một người rất được trọng kính, năm ngoái đã đàm đạo vốd tôi mấy lần, tuy ống công nhận sự thật về đức tin của ta, nhưng vì còn quá ham bổng lộc chùa chiền hay cửa Phật nơi ông trụ trì, nên chưa có can đảm rời bỏ. Bà vợ nhận ra sự hèn nhát này, bà liền xin ly thân với điều kiện là bà chỉ trở về sống chung khi ông tin theo đạo ta: và để bắt ông bỏ tư lọi mà theo lương tri, thì bà đem theo hết của hồi môn, không để cho ông lương thực, cho tới khi ông trở thành Kitồ hữu. Ông sãi đáng thương đã nổi cơn giận dữ rất ghê gớm, đến nỗi ông chửi bới đe dọa thày giảng của ta, lúc đó vắng mặt, nhưng ông khồng dám quá lỗ mãng khi có mặt thày, ông biết điều hòa tính nóng giận. Trong cuộc viếng thăm này, thấy các Kitô hữu ở đây được hưởng sự bằng an khá lớn, trừ những bổn đạo ở tỉnh Phú Yên; trong mấy năm trước đây, quan trấn thủ cũ có bà vợ là tín đồ Kitô giáo,4 ông đã nâng đỡ đạo ta, nhưng tuy đã ngoài bát tuần, ồng vẫn chưa thu xếp theo đạo. Chức vụ làm ừấn thủ của ông đã hết nhiệm kỳ, nhà chúa đưa ông về cai quản tỉnh Quảng Nam, còn viên quan được sai tối thay ông ở Phú Yên thì là ngưcd ít tỏ ra mộ đạo ta. Mà vì theo cổ tục của xứ này, đo sự bày đặt của ma quỉ, người ta đổ trên đâu các Kitô hữu hết các tai họa xẩy ra, như mất mùa năm nay thì họ đổ tội cho thày giảng Đamasô đã tới đây. Cũng như thời xưa, thánh Giutinô tử đạo phàn nàn về lương dân vì họ đã đổ lỗi cho các Kitô hữu khi xảy ra những tai họa thiên nhiên: thế là họ hội nhau tố cáo các bổn đạo vì đã chứa chấp ông thày đạo Thiên Chúa. Quan trấn thủ nghe theo lòi chúng, nên đã truyền bắt thày, cho người tìm kiếm thày ứong nhà các bổn đạo chính yếu; chúng cũng khổng tha nhà bà cựu trấn thủ, vì theo lòi tố cáo, chúng cho là thày ở đây, nhưng mấy ngày trước thày đã bỏ nhà này sau khi thừa hành mấy nhiệm vụ và đã đi nơi khác làm việc Phúc âm. Là người nhân đức nên thày đã tiếc vì bỏ lỡ dịp để chịu một sự gì vì Thiên Chúa. Cơn bão táp này không lay chuyển lòng kiên trì

13

của bà cựu trấn thủ. Bà rất can tràng chịu đựng sự xỉ nhục do việc bọn lính dám phạm tới nhà bà. Hơn nữa bà làm gương các nhân đức để củng cố tinh thần các Kitô hữu, bà để cho họ tự do xử dụng nhà thờ bà đã bỏ công của ra xây dựng, để họ hội họp nhau vào các ngày chủ nhật và ngày lễ. Một bà khác cũng không kém tỏ ra cương quyết trong vụ này, Bà đã thành Kitô hữu từ lâu và cả con bà tên là Gioan làm viên ký lục của chúa, cũng là chức quan lớn. Vì ông vắng nhà khi cơn bão táp nổi lên, bà mẹ vì có tuổi nên nhát đảm, bà sợ lính tới phá khu nhà bà, nơi có một nhà thờ nhỏ cho các Kitô hữu đến hội họp, bà liền cho hạ xuống trước khi quân lính cầm võ khí đụng chạm tói. Chị bà tên là Angelica vì quá đau đớn khi thấy quyết đinh vội vã đó mà không can thiệp kịp thời, nên đã ngã bệnh mà tắt thở, chỉ vì quá nhiệt tình mến yêu nhà Thiên Chúa mà bà đã nhắm mắt về đòi sau hưởng hạnh phúc. Một bà Kitô hữu khác tên là Pia, trong khi đó bà can đảm bảo vệ một nhà thờ ở Beauler (?). Người ta phao tin ra khắp miền này là quan trấn cho hành hạ những Kitô hữu chính yếu của làng này và bọn lính như sói dữ xông tới phá nhà thờ, nhưng bà đã cương quyết chống cự; được Chúa Thánh Thần soi sáng, bà đưa ra những lỹ lẽ hùng mạnh đến nỗi bọn lính phải chịu thua, bỏ ra vê, khồng còn thi hành dự định xấu. Thày giảng Inhaxu cần mẫn thực hành chức vụ trong miền phía Bắc đã trao phó cho thày. Thày bắt đầu làm phận sự trong phủ, nơi không thiếu việc để thỏa mãn lòng nhiệt thành. Có nhiều người xin theo đạo, những người này từ một năm nay đã giữ các ngày Chủ nhật và ngày lễ như thể đã là các Kitồ hữu. Có một vụ bắt bớ đã xảy ra ừong những tỉnh này, làm mồi nhóm lòng nhiệt thành rất lạ lùngề Trước đây hai năm, có mấy người mời tôi tối làm phép rửa tội cho họ, tôi đã đến mãi tỉnh Quảng Bình, giáp ranh giới xứ Đàng Ngoài. Ở .đây trong ba ngày tôi đã rửa tội chừng ba trăm người, đêm ngày làm việc không ngơi, thấy họ đã biết các chân lý đức tin, do mấy Kitô hữu Đàng Ngoài hay Đàng Trong tới dạy dỗ họ. Thù địch ơn cứu rỗi của ta không thể chịu mất nhiều đồ đệ, thế là khi tôi vừa rút lui thì nổi lên một vụ bắt bớ dữ dằn chống lại các người tân tòng, nhất là ở làng Kẻ Đại nơi có nhiều Kitô hữu hơn.Có một sắc lệnh được ban hành, bắt mọi người phải bỏ đạo,

14

nếu không thì sẽ bị tịch thu hết của cải và bị án lưu đồ. Có mấy người yếu đuối hơn trong đám đã nghe theo lệnh, ít là bề ngoài, nhưng sau đã sám hối rất thành thật, còn phần đông trong dịp này tỏ ra rất can đảm, công khai lớn tiếng đáp lại rằng; luật Thiên Chúa khắc sâu trong tâm khảm đến nỗi thà chịu móc ruột lôi gan hơn là chịu cướp mất của họ quí chuộng hơn sự sống* Phải ghi nhận ở đây lòng quảng đại của một thanh niên tên là Ầutinh, anh mới là Kitô hữu được ba hay bôn tháng, về thân xác thì hay đau yếu hầu như luôn luôn bệnh tật/Ãnh bị bắt và tức khắc bị gò cánh khỉ rất đau đớn, để ở ngã ba đường phố, không sao cựa mình được, thế nhung anh vẫn luôn tươi nét mặt, mọi người đều khen lòng can đảm bất khuất của anh, anh đã toàn thắng tất cả những sự dã man người ta bắt anh chịu. Lương dân lại càng thêm đe dọa các Kitô hữu, nạt nộ họ, người thì đem chôn sống, kẻ thì dọa bắt đóng đinh ưên cây Thánh giá mà các Kitô hữu đã thành tâm cho dựng trong xóm, nhưng tất cả những đe dọa không làm cho họ bỏ điều họ coi là của cải lớn nhất củ họ. Có mấy người biết trước cơn bão táp, trong số đó có Phaolô nổi tiếng trong thôn xóm và con là Philiphê mới theo đạo được mấy tháng, rất sốt sắng chinh phục các linh hồn và vì thế đã bỏ hết tài sản, chuông tinh thần thanh thoát hơn tiện nghi thể xác,tự nguyện nhận sống nghèo khó đé thoát cái nguy cơ cho sự cứu rỗiể Thế là hai cha con bỏ nhà ra đi, sống bằng của bố thí. Thiên Chúa phù hộ bằng những đường lối lạ lùng cho dễ sinh sống và họ đã làm ích cho nhiều người bằng led lành thánh khuyên răn của họ. >

Khi tới phủ thì họ bắt đầu làm nghề dạy học để kiếm ăn: nhưng Philiphê vì quá hãng say như thường lệ thì khải công giảng đạo Thiên Chúa trong một nhà hát xinh đẹp, dùng một vài cuốn sách tôi đã trao cho. Lòd anh giảng gây thành hiệu quả rất lổn đến nỗi lửa Thánh Linh bốc lên ngay trong phủ. Có một vài cận vệ nhà Chúa tin cậy hơn cả đã chịu theo chân lý và bắt đầu giữ chay, giữ các ngày Chủ nhật và ngày lễ như thực sự mình đã là Kitồ hữu, tỏ ra rất ao ước chịu phép rửa tội càng sớm càng hay. Nhưng vì là thời bắt bớ và tôi sống ẩn nấp không đám ra mắt trong phủ,để khỏi gây thiệt hại cho các Kitô hữu, lúc này họ được sống bình an, nên tôi không làm gì hơn là rút vê Macao, giao phó họ cho thày giảng Inhaxu để thày săn sóc thăm viếng họ, nâng đỡ

15

họ, yên ủi họ. Thày hoàn toàn làm đầy đủ nhiệm vụ và hơn nữa là vì thời chinh chiến và loạn li liên tục, nên thày đã rửa tội cho họ vì thấy rằng họ rất có thể liều mình không gặp các cha để làm việc này cho họ. Thiên Chúa tỏ ra có sự quan phòng đối với Phaolô: vì ông là một nhà nho và rất thông thái, được nhà Chúa biết tới và được trọng nể như một người rất có lương tri. Một hôm nhà Chúa và triều thần đi qua phố thấy ông và gọi ông tới, tức thì chúa cho ông chức đệ nhị tiến sĩ và cố vấn trong phủ, lại cho ông lương bổng khả quan, đủ để trả nợ cũng như để xử dụng đàng hoàng trong chức vụ lớn. Phiỉiphê con ông cũng được Thiên Chúa quan phòng dìu

dắt, bởi vì nãm đó là năm thi theo luật lệ xứ này, anh đã đậu bậc tiến sĩ, tuy mới 28 tuổi đâu, một sự trái với tục lệ trong nước và chưa bao giờ thấy trong quá khứ. Vì nhận thấy những ơn huệ mình được đêu do lòng từ bi Thiên Chúa ban cho, nên anh chỉ dùng để chu toàn bổn phận biết ơn và trả ơn Thiên Chúa. Anh dùng chức tiến sĩ và thanh thế mình để đàm đạo về đạo Thiên Chúa trong phủ và trong hàng các đồng nghiệp danh nho, rất thong dong, lôi cuốn mấy ngưcd tin theo đạo ta bằng những lời lẽ khôn ngoan thông thái và những guơng sáng của mình. Khi tôi rửa tội cho anh thì anh tỏ ý muốn bỏ mọi sự, muốn thoát ly để trần truồng giữ đức khó nghèo của đức Giêsu Kitô, như vậy để tự nguyện tự hiến hoàn toàn làm việc truyền bá phúc âm, nhưng vì anh có vợ và vợ cũng chịu phép rửa tội cùng với anh, nên anh không thể thi hành dự đinh theo bậc tông đồ mà anh đã suy tính. Sau khi Inhaxu đã khích lệ và yên ủi các Kitô hữu trong phủ, thì thày tiếp tục sứ mệnh tới mãi biên thùy xứ Đàng Ngoài, làm những việc và chịu những đau khổ một cách rất can đảm. Nhưng một cuộc tấn công gay gắt nhất đã xảy ra ở chính bản quán của thày, gọi là Hem Cun rất đông dân nhưng cũng rất ít người tin theo đạo ta, nơi đây thày giảng nhiệt tình đã chứng tỏ lời Chúa Cứu Thế: không tiên tri nào được ữọng nơi bản quán. Các bạn bè thân tín nhất của thày, trước đây rất trọng kính thày thì nay khiển trách thày như khi xưa người ta đã chống đối Thánh Phaolô: Kẻ điên khùng, thông thái quá hóa điên. Thực vậy họ cho là điên khùng, một nhân vật có thế giá lại khước từ mọi tham vọng làm lớn trong trường đời để đi giảng một thứ đạo quí trọng vào bậc nhất sự khinh dể mình và cởi bỏ hết mọi công danh phú quí trần gian. Inhaxu thương hại, thấy họ mù quáng thì lấy lời lẽ khiển trách họ, cho họ hiết rốt cuộc, chỉ còn sự khôn ngoan đích thực và độc nhất của Thiên Chúa mà kẻ thông thái nhất trần gian không bao giờ hiểu nổi, bởi vì họ kiêu căng và mù quáng; kiêu căng và mù quáng là hình phạt về tội họ phạm. Tuy nhiên công việc thày làm không phải không đưa tối hiệu quả, thày được yên ủi làm cho thân mẫu thọ gần tám mươi tuổi và mấy người khác ở đây trở lại đạo. Vừa làm phép rửa tội xong thì liền xảy ra vụ bắt bớ: nhưng cơn bão táp đã yên ngay sau đó ít lâu.

17

Ôm được những chiến phẩm phong phú, Inhaxu trở về phủ để mừng lẽ giáng sinh với đám đông các Kitô hữu và cả lương dân; một máng cỏ được ừang hoàng rất đẹp trong nhà một bà quý phái tên là Maria,5 thân mẫu của chú nhà chúa, một nữ Kitô hữu kỳ cựu, có đức tin can tràng qua nhiều biến cố thử thách, lòng thành kính của bà nổi bật trong ngày hồm nay, bà cho con bà và các cháu bà đến thờ lạy và tôn kính Vua vinh quang giáng trần, bà rao giảng những vinh quang Thiên Chúa cho những người từ các ngả tuốn đến viếng máng cỏ thánh. Vào đầu tháng 3 tất cả chúng tôi tới Đà Nẵng, ở đây chúng tồi sung sướng khôn tả vì gặp lại nhau sau bao nhiêu tháng trời xa cách. Tôi không thể diẽn tả hết niềm an ủi tôi nhận được khi thấy họ một mực vâng phục, tôn trọng những mệnh lệnh tôi để lạỉ lúc tôi ra đi; có thể nói họ như những tu sĩ tập sự của một dòng tu rất có qui củ hơn là những tu sĩ triều: họ ăn ở đúng như nguyện vọng và lời họ đã khấn phụng sự Giáo hội suốt đời, ếlỉ,cổch án ở của họ đã hoàn toàn ứng đáp những lòi họ thề nguyền. Ịp|f Vừa trở lại xứ này, tôi liên tới phủ, vừa để triều yết chúa, ihhât là vừa đổ gặp các Kitô hữu, cũ cũng như mới. Mặc dầu là ỉpỉhòi bình nhưng chúa không lơ đãng sửa soạn binh đao phòng 'lákhi cổ tai biến xảy ra, nhất là sau trận cuối cùng và trận rút lui Ipfia chúa Đàng Ngoài;6 ngài truyền cho mọt tướng lãnh đưa một Ệằố đông quân sĩ chiếm một nửa tỉnh Bố Chính, viên tướng này &M làm chủ được tình thế và hiện nay cai quản tỉnh này và thu thuế cho chúa Đàng Trong, Tôi chi đến yết kiến chúa vì có dịp đi qua mà thôi, bởi vì ở phủ chúa lúc này không thuận lợi. Vả, tôi nhân cơ hội dành nhiều thời giờ hơn cho các Kitô hữu. Họ không thể không kéo từng đoàn từng lũ chạy đến thuyền của chúng tôi, ngay trưóc mắt lương dân và vào giữa giờ ngọ. Tôi đã hết sức kìm hãm sự sốt sắng và nài xin họ chờ cho tới đêm tối mái đến thăm và lúc đó tôi được gặp họ thỏa thuê hơn. Đêm thứ nhất họ đưa tôi về thuyền của họ, rồi từ đó tối nhà một viên quan tên là Hui Due, mới là tân tòng, ông này đợi tôi để chịu phép rửa tội với bà vợ. Thế là tôi dùng hết thòi giờ giảng cho các Kitô hữu, sửa soạn cho người tân tòng được chịu phép thánh tẩy. Tôi thấy họ đã đưọc học biết đủ về các mầu nhiệm đức tin,

18

nên tôi chi giảng dạy thêm đôi chút; tuy nhiên tôi hoãn cho tới hôm sau, lúc đó họ được chịu phép bí tích sau khi đã dọn mình bằng ãn chay và thật lòng thống hối. Thế là sau khi đã dâng thánh lễ vào sáng sớm thì một Tân nữa tôi lui về thuyền của tôi, để cho nếu nhà chứa thấy hoặc cho người đến tìm tôi thì có thể thấy tôi ở đó. Ý nghĩ này đã thành công bởi vì vào buổi sáng chúa cùng đoàn tùy tùng đi qua chỗ thuyền tôi đậu, ngài cho vời tôi đến, mà vì tôi ra đón ngài thì đồng thời ngài cũng cho người báo cho tôi biết là ngài muốn đến thăm tôi, theo phép xã giao của xứ này. Đêm sau, ngưòi ta còn kéo đến đông hơn: tuy nhà rộng rãi nhất vùng, mà không chứa hết, bổn đạo cũ đành phải đứng ngoài, để dành chỗ hoặc cho người đang chờ để được chịu phép rửa tội, hoặc cho những ngưòi chưa được dự các nghi thức, số này lên tới gần hai trăm, cha đỡ đầu và má đỡ đầu cũng có mặt. Tôi giảng một bài đài về phép bí tích, sau đó là nghi thức xưng niềm tin các mầu nhiệm cao cả nhất của đạo ta, đặc biệt là sự chết và sự thương khó Chúa chúng ta, tôi giơ cây thánh giá cho họ nhìn ngắm. Mọi người hết sức xúc động và biểu lộ ra bề ngoài bằng những giòng nước mắt lã chã vì đã phạm tối một Thiên Chùa rất nhân từ. Niềm đau thương khắc sâu trong tâm khảm nhiêu người đến nỗi mỗi Tân ngưòi ta đưa ảnh thánh giá lên thì họ không sao cầm được gịot lệ. Tất cả công việc ưong phủ không cho phép tôi gặp bà thân mẫu của chú nhà chúa,7 bà này tôi đã nói ở trên; bà đành liên tục sai người đèn với tôi, ý bà là muốn xưng tội và rước lễ, nhất là từ gần hai năm bà chưa được gặp một linh mục nào. Cuối cùng bà cũng được toại nguyện, vì tôi đến dâng lễ Lá trong nhà thờ bà đã cho dựng trong tư dinh của bà. Các Kitô hữu kéo đến rất đồng, địa điểm cũng thuận lợi có thể chứa hết, tuy là ban đêm để khỏi đập vào mắt những kẻ ghen ghét đạo, bởi ánh sáng một nghi lễ rất long trọng. Tôi cũng biết là nhà chúa chẳng bằng lòng để cho tôi hành lễ trong nhà này, vì một mối lo sợ viển vông: chúa sợ con trai bà hoặc cháu bà rất có thể cướp ngôi báu nhờ vào phù phép của tôi. Cơ sở sự lo lắng viển vông này bắt nguồn từ Trung Quốc. Trong các sách có nói và họ cho là thật rằng: nếu muốn được vinh danh phú quí, được thịnh vượng thì cần tìm được một địa

19

điổm tốt để chôn cất cha mẹ, đặc biệt là mẹ. Vì thế họ làm hết sức để được việc này, họ không ngại tổn phí. Hơn nữa, họ ngu xuẩn tưởng rằng một địa điểm như thế có thể tìm được bằng thuật toán học. Mà vì chúa coi chúng tôi là những người tinh thông và rất giỏi vê khoa này, nên chúa nghĩ trong đầu rằng: oà này đã hơn 76 tuổi thọ,* nếu một mai khuất đi, thì chúng tôi sẽ tìm và kiếm cho ra một địa điểm thuận lợi đé chồn cất bà và sau này chúng tôi sẽ phát giác ra cho con trai bà, sau khi đã làm hết bổn phận báo hiếu mẹ thì sẽ chiếm được chủ quyền đất nước. Ý ; ĩỉghĩ mê tín này làm ngăn trở không cho tôi tợ do ra vào tư dinh bầ, chỉ thỉnh thoảng tôi nấm được cơ hội thuận tiên và kín đáo tối cho bà được chịu các phép bí tích. Giáo dân tân tòng mong cho tối làm các nghi lễ tuần thánh với họ, nhưng chỉ có một mình tôi là linh mục trong xứ này và

tôi đã chót hứa với người Bồ là tôi sẽ ở với họ trong tuần thánh, cho nên tôi đành phải trở về Hội An là nơi họ trú ngụ: tôi đã tới vào ngày thứ Tư tuần Thánh, ở đây không có nhà thờ, vì số rất lớn những kẻ thù địch. Chỉ có một nhà thờ ồ làng lân cận, nên rất đồng người tối dự, người Bồ cũng như người bản xứ từ các ngã đổ về, nhất là từ tỉnh Quảng Nam, để mừng các mầu nhiệm của đạo ta, Tuy nhà thờ rất rộng, nhưng cũng coi như quá chật hẹp vì số rất đông. Người ta trang hoàng với nhiều đồ ưần thiết đẹp nhất và với tất cả những gì quí nhất người Bồ đem tái để trưng bày Mình Thánh Chúa và thực ra trong nghi lễ họ tỏ ra lòng sốt sắng đặc biệt. Trong số này có mấy người Nhật “Không chịu quì gối trước thần Baal”9 nhưng kiên trì trong đức tin, họ cũng tới dự lễ, nếu có thêm mấy linh mục cũng phải khó nhọc lắm mới làm thỏa mãn nhiệt tình của những tín hữu tốt lành này, họ đêu muốn được xưng tội và rước lễ. Nghi lễ rửa chân được cử hành rất thân thương, rất cảm động đến giỏ nước mắt. Nhất là ngày thứ Sáu tuần thánh, thật là kỳ diệu khi thấy giáo dân rên rỉ khóc lóc và hôn chân Thánh giá. Mà vì càng thêm đông người mỗi ngày, thì tôi đành phải dâng hai thánh lễ trong ngày Phục sinh, một ở Hội An cho người Bồ và người Nhật, một trong nhà thờ cho các Kitô hữu xứ này, rồi tôi cứ tiếp tục như vậy trong các ngày chủ nhật khác, trong suốt thời gian tôi ở đây. Tin tôi đến thì đã đến tai các Kitô hữu tỉnh Quảng Ngãi, thế là không đủ kiên nhẫn đợi cho tôi đến thăm họ, có mấy người liền chạy đến tìm tôi, nhất là những tín hữu thuộc giáo đoàn Baobọn. Người thứ nhất trong đám đó là Mathêu, thường được nói tói trong những bản tường trình những nãm tnrớe vì lòng sốt sắng hiếm có: tuy ông rất nghèo túng, nhưng vì nhiệt tinh, ông đã dựng được một nhà thờ xinh đẹp, ông rất có khả năng, tuy ít chữ nghĩa, ông được mọi ngưòi kính nể, cả lương dân, vi ông rất liêm khiết, mặc đầu Thiên Chúa cho ông đặc ân làm những sự rất ký diệu. Tôi chỉ kể ra đây hai bằng chúng hiển nhiên. Một nho gia quí phái ngã bênh nặng. Song thân dùng hết các mê tín và đủ các thứ pháp thuật có thể có được, theo thói xứ này để chữa chạy: nhưng khi thấy binh càng nặng và người thanh niên hãjp hổi chết, không còn trông cứu vãn trong tay loài người, thì họ quyết định, mặc dầu còn là lương dân, cầu cứu Thiên Chúa qua trung gian người

21

Kitô hữu. Người này rất vui lòng và đây niềm trồng cậy nắm ngay lấy cơ hội để làm rạng danh Thiên Chóa. Ông sửa soạn những liều thuốc thông thường, đó là nước phép và ảnh Agnus Dei với lòi cầu nguyện và hoàn toàn tin tưởng. Khi nhận thấy sức khoẻ tinh thần của người bộnh thi ông công bố ngay những tui điêu chính trong đạo ta. Được tôi cho phép, ông liền rửa tội cho người bệnh, theo thể thức khi có nguy cấp. Nhưng điều kỳ diệu là ngưòi bệnh lúc được cứu linh hồn thì cũng là lúc được hồi phục sức khoẻ thân xác hầu ngay lúc đó, người bệnh ngồi dậy trên giường, lành lặn, khoẻ khoắn ít lâu gau. Hiện nay ông là một trong những Kitô hữu nhiệt tình nhất, giúp đỡ những người tuổỉ tác bàng học thức của mình; ngày lễ vè ngày chủ nhật, ở nhà thờ, ông đọc các sách đạo mà ông có bàng chữ Nôm. Thật là một niêm vui lớn cho người Kitô hữu đã dược chinh phục cho Giáo hội. Người có học thức này đã thay thế cho một người mấy hôm trước đây, như chúng tôi tin tưởng yì là một cái chết lành thánh, đã về cõi trời. Trường hợp thứ hai đặc biệt hơn, cũng đã xảy ra nơi người ỊCitô hữu này. Ông được người ta mời tối cứu giúp một trẻ đang ịlấp hối và thực ra đã tắt thở trước khi ông vào tối nhà. Thấy đứa P đã chết, thì ông cầu xin Thiên Chúa cứu lấy linh hồn em, rồi ẳng cẩn thận và vội vàng làm theo những gì tôi đã cần dận khi |ập trường hợp nguy cấp. Ông lấy ảnh Agnus Dei và với một lỉèm tin dồi dào ông để lên thân hình nhỏ bé: kỳ diệu thay, đứa ặ6 động đậy như còn sống; thấy thế Mathêu liền rửa tội cho em jttgay lập tức. Nhưng vì Thiên Chúa chỉ cho thân xác em sống m lãnh được sự sống đời đời, như ý nguyện của người Kitô hữu nhiệt tình, cho nên vừa được trong trắng nhờ ơn phép thánh tẩy và trở nên như một Thiên thần nhỏ bé, thì em liền bay vê trời. Những sự kỳ lạ do người Kitô hữu này làm và những ơn đặc biệt khác thì rất hiển nhiên và rất xác thực, cũng như nhiều sự tương tự khác, Thiên Chúa đã đặc biệt ban cho những dân tộc này qua trung gian một Kitô hữu khác tên là Emmanuel, một lang y chuyên nghiệp. Toàn cõi xứ này đều rất xúc động khi thấy không có lương dân nào lại không cương quyết cửi bỏ sai lầm mà trong quá khứ họ đã đem ra để chế nhạo các Kitô hữu và những kẻ muốn ưở lại đạo ta. Ở một miền kế cận có một giáo dân tốt lành tên là Anrê, Thiên Chúa đã cho ông ơn chữa bệnh rất đặc biệt: danh tiếng đồn đi rất

22

xa, vì thế nhà ông thường như một bệnh xá, từ các nơi người bệnh kéo đến để mong được hồi phục sức khỏe. Thế nhưng tuy được thành công, ông thấy mình đau đớn nặng nề bởi vì trong số đông những người được ống chữa cho khỏe mạnh thân xác, không một người nào được cứu rỗi phần hồn: đây mới là việc quan trọng, theo ồng nghĩ rất đúng, của vĩnh cửu phải được vô cùng quí trọng hơn của trần thế. Năm ngoái ông đã chỉ cho tôi thấy cái dằm đó trong lòng ông. Tôi đã yên ủi ông, khuyên ỏng vững chí, ông không bị thiệt thòi gì, Thiên Chúa đã nhận những ý hướng tốt lành của ông và thưởng ông đầy đủ như thể những điều này: vì ông đã rửa tội bốn trẻ em trong lúc cấp bách, nên Người đã tức khắc đưa các em về hưỏng vinh quang. Người Kitô hữu của chúng ta rất vui mừng thuê thỏa, ông hoan hỉ nói: nủnh có bốn thiên thần liên tục cầu nguyện cho ninh trước tòa Thiên Chúa cao cả huy hoàng. Trong một làng khác có một Kitô hữu ba năm truớc đây đã đưọc cha Bento de Mattos rửa tội cho, ông cũng đã chinh phục được ba mươi bạn đồng hương, ông đã dạy họ thông thuộc các mầu nhiệm đạo ta, đến nỗi tôi đã tự tay rửa tội cho họ* Cũng

người này, tên là Đaminh, đã dựng một nhà thờ nhỏ đé tiện làm các việc đạo đức. Tôi đẩ rảo khắp khu truyền giáo cho tới ranh giới xứ này. Ở đây người ta xây lũy rất kiên cố, một thứ thành quách mà chúa Đàng Ngoài mới đây đã ba lằn tấn công mà không vượt nổi.10 Cổ nhiêu ngưòã đến xin trở lại đạo. Họ cương quyết và xác tín vì những phép lạ hiển nhiên, nhất là đối với những người bị quỉ ám, nhờ vào khí giới kinh nguyện của các Kitô hữu. Một bà có thể giá tên là Têrêsa có chồng tên là Phanxicô cũng là Kitô hữu. ông giữ chứ vụ quan và thừa hành giữa các bạn đồng sự, nhưng dược Thiên Chúa cho quyền phép chống lại các quỉ dữ. Từ khi cả hai trở lại đạo thi tự nguyện phụng sự Thiên Chúa, rất ldên tó, đến nỗi không còn làm việc gì khác; trong khu nhà mình, đã dựng một nhà thờ để cho các Kitô hữu hội nhau và một gian cho linh mục trú ngụ; ngoài mấy ảnh thánh khác, còn đặt nơi này ảnh Đức Bà Mân Côi mà họ đã sắm được trước khi là Kitồ hữu: họ tỏ ra sùng kính rất đặc biệt. Quyền thế mà Thiên Chúa ban cho bà này thì rất lạ thường, bởi vì khi bà đến gần người bị quỉ ám, dù nó có dữ dằn đến đâu, thì bà cũng làm cho nó run rẩy và vật mình xuống đất. Bằng lời cầu nguyện bà đã đuổi được mấy người bị thứ quỉ dữ đó ám: chúng chế nhạo tất cả những sự bày đặt của các thày pháp của lương dân. ở đây tôi được người ta cho biết các Kitô hữu tỉnh Bố Chính,11 ờ vào biên thùy xứ Đàng Ngoài rất ao ước gặp một linh mục, nhưng vì toàn cõi này có nạn binh đao, nên để cho giáo đoàn này không bị thiệt hại thì tôi không thể thân hành đến với họ được, tôi chỉ phái đi một ưong những thày giảng sốt sắng của chúng tôi. nhưng họ không hài lòng và họ đã phái mười hay nười hai ông trùm trưởng đến gặp tôi. Người đứng đầu tên là Simon tôi đã rửa tội trước đây 13 năm khi tôi còn ở xứ Đàng Ngoài, từ thòi đó tôi chưa gặp lại. Đồi bên vô cùng sung sướng: thày đã chinh phục được mấy lương dân ở tỉnh Bố Chính. Trong toán này có một Kitô hữu tên là Phanchicô, người mà Thiên Chúa đã ban ơn lạ lùng chữa lành bệnh nhân, lúc đó, mới chỉ là tân tòng; nhà ông đầy người bệnh, ông đọc kinh cầu nguyện và làm cho họ phục hồi sức khoẻ. Những dấu hiệu hiển nhiên về quyền thế Thiên Chúa đã làm

24

xúc động mọi người trong thôn xóm đến nỗi họ đều xin theo đạo. Rồi, hết các mê tín dị đoan, hết các tế lễ vô đạo đều được tiễu trừ khỏi địa phương này và bây giờ Thiên Chúa thật được trên một nghìn Kitô hữu tôn thờrất sốt sắng (ai cũng bỡ ngỡ, tuy tin vững vàng), mặc dầu cho tới nay chưa thấy một linh mục nào: thật là Thánh Linh thổi nơi Người muốn. Sau khi rảo khắp miền kể trên thì tôi trở vê phủ để từ biệt các Kitô hữu. Vì quá nhiều việc nên tôi phải ở lại hơn một tháng, chính nhà chúa cũng giữ tôi ở lại khá lâu. Cũng có nhiều người ở các làng lân cận đến XÙI chịu phép rửa tội, họ đã bị thu hút bởi những bài diễn giảng liên tục của một Kitô hữu nhân đức tên là Gioan Van. Việc trở lại của một vị lão thành 80 tuổi thì đáng ghi nhớ. Ông là người đứng đầu những kẻ rất sùng đạo Phật, nghĩa là thần giả trấ trong tỉnh này. Ông đóng góp rất nhiều của cải vì hy vọng thu được những công phúc lớn lao ở đòi sau. Nhưng khi thấy mình bị lừa vì những lý lẽ hiển nhiên trích chính trong Kinh sách mà ông rất ừọng và vì ông là người phán đoán rất ngay thẳng, nên ông nhìn nhận sự thật, ông cũng bắt hết các con cháu và gia nhân theo gương ông, cộng là ba chục người. Những lý lẽ này cũng đã gây hiệu quả ừên tâm trí một trong các quan thái giám, người được chúa rất tin cẩn. Ông đã bỏ hết các mê tín cũ, rất kỳ dị, rât nhiều nơi những kẻ mù quáng khốn đốn này, những dị đoan làm cho họ vướng víu mỗi bước, mỗi dịp. Thế mà tuy chưa nghe giảng về đạo, ông đã mến chuộng đến nỗi ông liên tục đọc các sách của ta và cắt nghĩa cho các người trong nhà. Năm ngoái khi phải ra trận, vì là tướng lãnh một đạo quân, nhưng vì ông đặt hết tin tưởng nơi Thiên Chúa, nên ông không chịu làm các nghi lễ mê tín mà lương dân nghiêm chỉnh làm khi ra trận. Thù địch theo dõi ông, đã tố cáo ông nơi nhà chúa vì chúa rất tin dị đoan. Chúa cho vòd ông đến và thịnh nộ khiển ừách ông, không cho ông cầm quân: ổng cho là một đau đớn đáng kể. Mà vì quan thái giám bất hạnh này còn yếu đuối trong đức tin, chưa được bồi dưỡng bằng các phép bí tích, nên ông sợ hãi niêm lòng, trở lại với những mê tín buổi đầu, tuy ông hiển nhiên nhận sự sai trái. •



25

Thực ra người ta có thể nói chung là dân nước này sẳn sàng, nếu nhà chúa không tỏ ra quá thiên vị và quá sùng đạo Phật và đàng khác không tỏ ra ghét đạo ta, thì hầu khắp nước sẽ tin theo Phúc âm. Tôi đã nghiệm xét điêu này trong hai trường hợp sau đây, cả hai đều đáng thương hại. Trường hợp thứ nhất xảy ra trong phủ chúa, với một trong các quan đại thần đứng đầu Cơ Mật viện, một người khôn ngoan nhất và được chúa rất kính trọng. Ông mời tôi đến nhà và sau khi đàm đạo lâu dài, thì chúng tồi nói vê các mầu nhiệm của đạo ta. Ông nhận ra sự thật, cả bà vợ cùng nhiều gia nhân đều xin theo đạo. Còn ông, ông không dám theo, lấy cớ là còn phải dò ý chúa trước đã và nghiên cứu thêm các sách của ta, để tường trinh cho chúa biết khi có cơ hội thuận lọi. Dường như Thiê Chứa muốn cho ông như vậy và để ông không thấy mình có thể chết bất thần, vì ông đã 76 tuổi. Trường hợp thứ hai còn đáng thưong hơn. Viên quan trấn thủ năm ngoái cai trị, tỉnh Phú Yên có bà vợ rất nhân đức,12 bà này có thể sánh về nhiệt tình và đạo hạnh với bất cứ bà lớn nhân dức nhất nào khác bên trời Âu của chúng ta. Bà liên tục mong mỏi cho chồng trở lại đạo. Năm nay ông được bổ nhiệm làm quan trấn thủ tỉnh Quảng Nam, nơi có những Kitô hữu tiên khởi của cả nước Annam và ở đây ống đã theo ý bà cho xây cất một nhà thờ ở ngay canh tư dinh, để các Kitô hữu hội nhau vào các ngày lễ và các ngày chủ nhật, chính ông thỉnh thoảng cũng đến thờ phượng Thiên Chúa. Khi tôi đến từ biệt ông, thì tối rõ ràng tỏ tâm tình tôi giữ trong lồng là thấy ông đã tới tuổi thọ bát tuần và hơn nữa, thế nhưng cho tới nay vẫn trì hoãn chưa theo đạo là đàng thật, đàng độc nhất cứu rỗi đòd đời; bà vợ cũng hết sức sốt sắng khuyên dụ ông xin chịu phép thánh tẩy. Tôi nhận được lòi từ lâu mong đợi là ông tự nguyện ừao thân trong tay tôi và tôi tùy ỷ dạy bảo ông. Thế là tôi bắt đàu giảng mấy điều chính yếu ừong đạo, nhưng cần phải tỏ cho ông biết những việc phải làm, những điều ông phải nhận khi thành Kitô hữu. Tôi tành bày sự hư vô của thần giả trá và ông phải khinh chê không được thờ cung. Tôi bắt ông phải hứa giữ những điều tôi giảng giải, đậc biệt không được tin theo hay cứng tế thần Phật, nhưng sự hèn nhát đã lôi cuốn ông trở lại đàng sau vì một cơ hội tôi kể sau đây.

26

Theo tục lệ xứ này thì phải cúng thần Phật mà họ coi là lảm chủ mọi chức vụ, mọi công việc. Vì ông là viên quan võ đệ nhất hạng, ông cũng là người đứng đàu cúng tế dị đoan mê tín, không phải vì tin là sẽ được sự phù trợ nào, mà chỉ vì sợ kẻ thù địch tố cáo nod nhà chúa. Tất cả những ldi giảng dạy của chúng tôi không đủ ảnh hưởng tới tâm thần ông, để ông hứa vói tôi là sẽ bỏ không làm những mê tín này. Tôi đành để ông trong tình trạng khốn đốn và rất tiếc, chỉ bắt ông tự tay viết những tên rất thánh Giêsu Maria và khuyên ông nên luôn cầu khẩn các Ngài giúp đỡ. Tôi mong rằng Thiên Chúa sẽ thương ông khi cần, dựa vào sự cần mẫn và săn sóc liên tục của bà vợ rất lành thánh, bà coi sự hèn nhát của ông như một nhất dao đâm vào tâm hồn bà. Tôi cũng thấy tâm hồn tôi bị đâm một nhát dao như vậy và ước gì nguyên nhân tai họa này không phải là vì tội tôi.13 Trong cơn phiền muộn này, điêu an ủi tôi, như tôi đã được biết từ khi tôi tráy đi, đó là mùa gặt các linh hồn thì rất phong phú, có 2.226 lương dân gia nhập hàng ngũ thờ phượng Thiên Chúa, không kể nhiều người khác vì hoàn cảnh cấp bách đã được những ngưòi tôi chỉ định để thừa hành nhiệm vụ làm phép rửa tội •

Đọc bản tường trình này thì thấy rõ rất cần thợ trong khu truyền giáo có nhiều triển vọng lớn, nhất là bắt đàu đã được tưới băng máu các tử đạo là hạt giống tốt nẩy sinh các Kitô hữu, như chúng tôi sẽ tường thuật vắn tắt sau đây.

27

n TƯỜNG TRÌNH VỀ CÁI CHẾT VINH QUANG CỦA THÀY GIẢNG ANRÊ TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI XỨ ĐÀNG TRONG NGÀY 26 THÁNG 7 NẢM 1644

T

ôi đã rời bỏ phủ để ưở về thành phố Macao, khi quan tòa tỉnh Quảng Nam gọi là ông Nghè Bộ, từ phủ về mang theo sắc lệnh chúa cho bắt giam tù các Kitô hữu và triệt hạ các nhà thờ. Ngưcti ta bắt đâu bắt Anrê là một bổn đạo cũ mà ngưòi ta biết ông đã chịu đau khổ và bị đánh đập trong những năm trước đây để làm chứng đạo thánh. Ông rất sẵn sàng lại hứng chịu, tự nộp mình làm tù nhân, mang gông cùm và cứ như thế kéo lê qua khắp phố phường. Hai hay ba Tân ông cương quyết chịu trước mặt quan toà, lớn tiếng công bố là từ mấy năm nay ông vẫn là Kitô hữu, thờ đấng tạo thành và là vua cao cả trên trời. Việc tuyên xưng can đảm này làm cho viên tòa ĩất tức giận, nhưng Anxê nói lớn tiếng mình sẵn sàng chịu mọi hình khổ vì đạo. Người ta bắt ồng mang một chiếc gông nặng trĩu ở cổ, ông vui lòng lãnh nhận, tuy ông là một người già nua đã 73 tuổi thọ; thế mà ông can đảm như một trai tráng nhẫn nại chịu đau khổ. Đồng thời quan tòa phái một viên chức tới nhà chúng tồi; người thứ nhất rơi vào tay chúng là thày giảng Anrê, quân lính bắt trói và đánh đập thày. Quằn bất lương chiếm đoạt hết những gì mà chúng thấy, lật đổ bàn thờ và xúc phạm rất nhiều đến sự thánh, Anrẽ rất xúc động đến nỗi thày nói: hãy để cho tôi sắp xếp tất cả lại và đặt để cho có ngăn nắp, hẳn hoi, đồ vật nào nơi ấy. Nhung những tên vô đạo khuân hết đồ đạc xuống thuyên, đẫn theo người tù bất hạnh. Còn thày, thày xin chúng cỏi trói

28

và tha cho một thanh niên đau yếu mà chúng thấy ở trong nhà chúng tôi, chúng nghe lòi thày xin. Dọc đường bọn lính hăm dọa thày, nhưng thày không ngừng can đảm nói cho chúng biết về đạo ta, do đó có một tên bực mình hơn cả đã nói vói thày là y sẽ cho đeo vào cổ thày một cái gông thật nặng để cho thày không còn tự do nói như thế nữa. Được, tin người ta đưa đến cho tồi ngay lúc đó, thì tôi hoãn cuộc khcá hành, tôi chạy đến nhà ông Nghè Bộ, rồi từ đó tới nhà giam để thăm ông già Anrê tốt lành. Tôi rất vui mừmg thấy ông kiên trì và thanh thản chịu cực khổ, tôi ôm ông nghìn lần và hôn chiếc gông ông mang vì đức tin. Tôi vui lòng thức suốt đêm với ồng nếu tôi được phép: tôi trở lại nhà quan toà, ông bảo tôi là ông đã cho người đến tìm tôi để thay mặt chúa gọi tôi cho tôi biết: ngài rất giận tôi vì có từng mấy ngàn công dân của ngài trở lại đạo và ngài đã hối vì đã cho phép thêm số Kitô hữu ừong các lãnh thổ thuộc quyền ngài: thế nên thay mặt ngài, ông cho tôi biết là phần riêng tôi, tôi được tự do đi lại trong khắp xứ và tự do thờ Thiên Chúa theo đạo của tôi, nhưng ngài không muốn cho thần dân ngài trở thành Kitô hữu và đo đó ngài cấm tôi giảng dạy đạo nếu không thì sẽ bị trừng phạt. Tôi đáp lại rằng: đạo tôi rao giảng là đạo đức Chúa Trời đất, vũ trụ hoàn cầu đều vâng phục Người và không hơn không kém, nếu cha tôi đến truýền cho tôi điều gì ứái luật nhà chúa thì tôi buộc phải vâng lời nhà chúa, chứ không vâng lòi cha tôi; cũng vậy Thiên Chua truyền cho tôi giảng dạy đạo Ngưcd thì tôi không thể ừái lệnh Người, và không có nước nào, quốc gia nào không ở dưóỉ gầm trời này, thì cũng vậy không có người

nào mà khồng công nhận Thiên Chúa là Chúa tròi đất; hơn nữa, nếu các Kitô hữu ở xứ này bị giam tù không phải vì trộm cướp hay vì tội ác nào, nhưng chỉ vì theo đạo Thiên Chúa, thì tôi đây là kẻ đáng xử hơn ai hết, bởi vì chính tôi là người giảng dạy đạo đó, tóm lại việc đại phúc ông có thể làm cho tối, chính là bắt tôi vào tù ngục vì lý do đó; thực ra hạnh phức đích thực ở đời này là chịu khổ cực vì lẽ công bằng và vì đức tin đích thực; ông không thể đáp lại tôi bằng những lời nào ngoài điều này: ý của chúa là tôi không được giảng dạy cho thần dân ngài đạo Kitô nữa, và sau khi trả lời tôi như vậy thì ông để cho tồi ra về. Đêm đã khuya và thuyền chở tù nhân Anrê thày giảng còn cập bến ầm ĩ. Tức thì người ta dẫn thày tới quan tòa, ông nay hỏi thày tại sao lại ở với ông cha của các Kitô hữu, thày đáp lại là vì thày theo đạo Thiên Chúa, và câu hỏi này đã được nhắc lại mấy Tân và mấy làn thày thưa lại: tôi là Kitô hữu và tôi tôn thờ Chúa thật trời đấtẵ Quan tòa giận giữ vì một thanh niên 19 tuổi thưa lại quá tự do, thế là ông truyền bắt giam thày trong ngục chật hẹp người ở đây gọi là Tròng cổ, và thày đeo chiếc gông ở cổ, rồi người ta hoãn việc xử thày vào ngày hôm sau cùng với một Kitô hữu khác nhiều tuổi hơn thày. Người tân tòng của chúng ta được tràn đây niềm an ủi rất dịu dàng khi thấy mình vì một nguyên nhân cao cả mà bị giam trong ngục cùng một người bạn đồng sự rất lành thánh. Sáng hôm sau cả hai mang gông ở cổ bị điệu qua các phố tới tòa án. Quan tòa cùng các cố vân tuyên bố án xử tử hai người đầy tớ Thiên Chúa, cả hai đen rất sung sướng khi nhận được tin hạnh phúc: án này phải được thi hành ngay hôm nay; thế là hai người được trao trong tay kẻ hành hình. Còn tôi, tôi lo lắng bàn với người Bồ xem có thể chuộc lại các ảnh thánh và rất là ảnh thánh giá lương dân đã lấy ở trên bàn thờ: chúng tôi cùng đi tới quan tòa xin ông ban cho ơn đó và cũng để xem do nguyên cớ gì mà người ta đã lên án chống lại các bầy tôi Thiên Chúa. Vừa tới trước mặt ông thì ông liền

30

truyền cho người ta trả lại chúng tôi các đồ đạc, nhưng còn ảnh thánh thì ông nói, tôi muốn cho thiêu hủy đi, thế rồi ông cũng bằng lòng trả lại chúng tôi ảnh Chúa cứu thế và ảnh Đức Thánh Tririh Nữ, còn ảnh thánh giá thì không có cách nào lấy lại được từ tay ông. Bấy giờ thuyền trưởng Joan đe Resandé người Bồ tiến lên và nói với quan tòa: ảnh này của tôi, đó là huy hiệu trọng kính của thuyền tôi giữa mọi phong ba bão táp trên biển cả, vậy thưa ông, tôi xin ông lịch sự trả lại cho tôi. Lời xin này được hiệu quả làm cho chúng tôi rất toại nguyện. Sau nhiều lời cám ơn quan tòa về ƠĨ1 huệ này thì chung tôi tiếp tục cãi về vụ án: chúng tôi chứng minh trước mặt ông rằng từ bao năm nay đạo Thiên Chúa đã gia nhập khắp xứ Đàng Trong và được đón nhận rất nồng hậu, và cho tới nay không có người nào bị án tử hình vì nó, hơn nữa các Kitô hữu không làm hại ai, vậy xin mở lượng khoan dung tha hai Kitô hữu bị giam tù được ra vầề Quan tòa đáp: tôi tha cho ồng già vì đã 76 tuổỉ thọ, để cho ông trở về sống quãng đời còn lại với con với cháu, mặc đầu ông không đáng. Ông nói như vậy vì tưởng rằng tất cả những gì ông già nói về đạo và sẵn sàng chịu mọi cực hình hơn là bỏ đạo, tất cả chỉ là hoang đường, là mơ mộng, còn viộc đáng được tha chỉ vì tuổi tác của ông; nhưng còn người thứ hai, ông tiếp, y sẽ phải chết: dù chúng tôi cãi lại thế nào đi nữa, ông không hề chịu ban ơn cho thày Anrê. Đó là Thiên Chúa muốn thưởng thày danh dự tử đạo, mà thực ra Ngưòi đã ban cho thày. Nói cho đúng, sau này quan tòa ngỏ ý như thể phàn nàn vì những led đáp quá đáng cũng như sự quá nghiêm khắc của ông: nếu y xưng là y nghèo khó và y đến giúp việc phục dịch ống cha để có của nuôi thân, thì tôi đã tha cho y, nhưng y bất khuất và táo bạo xưng mình là Kitô hữu và afln sàng chết vì đạo, y không sợ cực hình; nhu thếy tỏ ra ngoan cố và điên dại, y chết là phải. Đó là lòi lẽ quan tòa ngoại đặo gọi sự khôn ngoan của đức Thánh Linh là điên cuông, Đấng tuyên xưng qua miệng người Kitô hữu.

31

Sau khi đã vận động hết sức với quan tòa mà không được việc gì thì chúng tôi nhờ trung gian quan cựa trấn thủ có bà vợ là Kitô hữu,14 nhưng ông này tỏ ra sợ sột, không muốn đính dấp vào vụ này, để mặc cho quan tòa thừa hành lệnh từ phủ đưa tứi, ông còn thêm là ổng sợ chúa cho chặt đầu ông bồi vì vợ ông ỉà Kitô hữu. Vậy tất cả vận động và cố gắng lo lắng của chúng tôi đèu vô hiệu. Thiên Chúa muốn ban cho người thanh niên tốt làmh ngành lá tử đạo, vì thế chúng tôi có thể nói về thày rằng: đời ngắn ngủi nhưng công phúc trường niên, bỏd vì được Thiên Chúa đoái thương đến. Tôi trở về nhà tù để khích lệ người Kitô hữu, tôi hôn thày mấy lần, tôi hôn chân tay thày mang gông cùm, gông cùm sẽ đùng làm cỗ xe vinh quang đưa thày đại thắng về thiên quốc, Tôi ca ngợi số phận may mắn Thiên Chúa dành riêng cho thày: nhưng thày tỏ ra rất khiêm nhường, nhận mình là một tội nhân bất xứng không đáng ơn đó, thày xin Thiên Chúa cho thày được xứng đáng và kiên trì trong niềm tin bất khuất cho tới chết, cho thày lòng yêu mến đáp lại lòng mến yêu. Tôi hỏi thày xem có điều gì làm phiền lòng thày thì thày đáp: không có gì hết, lòng tôi tràn ngập một niêm vui mà tôi không sao tò ra hết được. Lòi thày nói thì rất thật, vì hiện ra ữên nét mặt thiên thần rất thanh thản và ữên khoé mắt thày đầy hân hoan, đến nỗi các người Bồ theo tôi đến thăm thày, họ ngắm nhìn thày khổng chán, họ không muốn ròi thày và mọi người đều cả quyết là đã thấy đức Thánh Linh hữu hình ngự nơi tâm hồn thánh thiện này, vì thế vừạ khóa lóc thở dài thở ngắn vừa xin thày nhớ cầu nguyện cho mình. Còn thày, thày luôn mở miệng nói mình là kẻ tội lỗi và thân thương xin mọi người cầu Thiên Chứa cho mình được kiên trì bất khuất. Cả Kitô hữu cả lương dân đèu kéo đến rất đông. Lương dân vô cùng bỡ ngỡ lạ lùng vì thấy một sự mới lạ và chưa bao giờ nghe nói xảy ra ở xứ này, đó là có một người đã vui vẻ chọn cái chết để bênh vực sự thật. Quang cảnh này còn làm cho

32

lương dân sụt sùi rên ri thương xót, Để chuẩn bị bước vào trận cuối cùng thì người Kitô hữu của chứng ta muốn xưng tội, anh đã làm việc này rất ngắn như thường lệ cũng đã rất ngắn, nhiều khi chỉ ưong thời gian đọc một kinh kính mừng. Thật vậy hồn thày trong trắng đến nỗi khó mà tìm được chất liệu dể ban ơn tha tội. Thày cũng đã xưng tội đúng vào ngày trước khi thày bị giam tù và đã chịu các phép bí tích Thánh Thé nhằm ngày lẽ thánh Giacôbê tông đồ; thường thì thày chịu các phép bí tích tám ngày một lần. •

Sau khi xưng tội thì anh ở lặng một lúc, mắt ngước lên trời và nhìn mặt trời tỏ ra thân thương vì phải chờ đợi quá lâu, thày nhiệt tình mong cho tới giờ phút cuối cùng. Thiên Chúa nhận niềm mong mỏi lành thánh, vì thường thì người ta thi hành bản án vào ban đêm, còn giờ chết của người chiến sĩ can tràng của đức Giêsu Kitô thì đã đến sớm hơn rất nhiều, bởi vì thày bị điệu tới nơi hành hình vào lúc năm giờ chiồu. Thật là đáng khen ngợi khi thấy mặt thày thanh thản, thân hình thày thanh thoát, thày đi lanh lẹn và với một dáng điệu rất lạ lùng đến nỗi chúng tối phải chạy theo thì mới đuổi kịp. Dọc đường thày không để phí thời giờ, thày khuyên dụ bọn lính cầm giáo mác, gươm đao áp tải thày hãy theo gương thày chọn con đường về trời. Khi tới nơi hành hình thì con ngưòi thánh thiện này quì gối, ngỏ lời vĩnh biệt hết các Kitố hữu, khuyên nhủ mọi người trung thành và kiên trì trong đức tin. Còn về việc riêng của thày, thì xin mọi ngưòi đừng sợ, đừng đau đớn, chỉ xin thêm lời cầu nguyện Thiên Chúa cho thày được trung tín cho tới hơi thở cuối cùng. Trong khi thày nói nhũng lòi này thì người ta tháo cái gông buộc trên vai thày và có một tên lính cầm chiếc giáo đâm đàng sau lưng về bên tĩái, thâu qua bên kia. Vị tử đạo vinh quang còn kêu rõ ràng và rất sốt sắng hai thánh danh Giêsu Maria. Tên đao phủ chưa thấy mình thành công ữong nhát dao thứ nhất thì đâm thêm ba nhát nữa làm cho ngực mở rộng một phần lớn, vị tử đạo hiển vinh vẫn còn luôn lớn tiếng kêu thánh danh.

33

Sau những nhát đâm liên tiếp này thì đầu thày hơi nghiêng về bên phải: một tên đao phủ khác chém một phần lớn cổ, đao mã tấu chém hai nhát, thế là chân phúc Anrê của chúng ta ngã lãn xuống đắt như thể cây tốt, về bên tay phải; thày còn lắp lại, lúc đầu rơi xuống đất, như các người Bồ có mặt trong tấn bi kịch đẫm huyết đã khai là nghe rõ ràng, qua lỗ mở của cuống họng, giữa một dòng suối máu tuồn trào, danh thánh Giêsu nhờ công nghiệp Người và việc tử đạo vội vã này mà thày đã chiếm được triều thiên vinh quang (bởi vì cả việc cầm tù, việc tra khảo, việc xét xử, cả việc kết án và cái chết đều được thi hành chưa đầy trong vòng một ngày). Tức thì chúng tôi cầm khăn chạy đến hứng máu quý giá tuôn ra tới tấp từ những mạch máu đến nỗi noi thày nằm ướt đẫmề Những người Bồ quen giữ lòng đạo đức có mặt trong cuộc đại thắng vinh quang này, họ cẩn thận thu nhặt các di tích thánh, cắt áo chia nhau mỗi người mỗi mảnh, còn đất và cỏ có thấm máu vị tử đạo thì cũng được chu đáo dành riêng cho một người Kitô hữu của chúng ta: có người tên là Antôn đã đưa tái một tấm áo rất có giá để bọc xác thánh. Lương dân rất bỡ ngỡ thấy những điều mới lạ và những vinh dự dành cho thi hài và tưởng nhớ người mệnh một. Tôi lợi dụng cơ hội nói cho họ biết những lý do chính đáng của những việc đạo hạnh này rằng: trước mắt những kẻ khống hiểu biết thì vị tử đạo như đã chết, nhưng trước mặt Thiên Chúa là đấng thấy tương lai như hiện tại, thì vẫn còn sống, hoậc là hồn vĩnh viễn từ đây sống trên Trời, hoặc thân xác đến thời thì sẽ sống lại đày hiển vinh, và tuyệt mỹ để muôn đời ngàn kiếp sống nơi Thiên Chúa. Các Kitô hữu chung nhau sắm một cỗ áo quan rất có giá để liệm di vật thánh, rồi rất cung kính đưa đến nơi xa chừng hai dặm: họ yên lặng làm công việc này để dập tắt cơn thịnh nộ của các thù địch đạo ta. Chúng tôi đưa xuống tàu của chúng tôi, cùng mọi người nhà chúng tôi, nhất là với hai thày giảng có

34

chức là đạo trưởng, chúng tôi đợi ở đây. Chính hai thày này lương dân chú ý đến bắt và cho sát hại, nhưng vì khồng tìm thấy ở nhà chúng tôi, nên chân phước Anrê đã cướp được triều thiên. Đó là điều làm họ cay đắng và phiền muộn, và để lấy lại cơ hội đã mất họ không ngừng thôi thúc tôi để cho họ đến trình điện ở Quảng Nam, trước mặt các quan tòa đã cho người lùng bắt họ, nhưng tôi khuyên họ nên đợi cho cơn bão táp qua đi, tôi dẫn dụ cho họ biết nếu Thiên Chúa muốn cho họ được phúc tử đạo thi sẽ không thiếu, nhung hiện nay thì nên trốn tránh và dè giữ đê phòng và khôn ngoan. Tóm lại nếu họ không thận trọng mà tiến bước để tự hiến mình thi có thể là Thiên Chúa sẽ phạt họ về tội táo bạo 1 lều lĩnh, rrhĩa là NgrM từ chối không ban ơn cho họ có thể trở thành những vị tử đạo đích thực. Rồi sau đó tôi căn dặn các gia nhân, tất cả mười hai người, đều là những kẻ ữai ưáng khỏe mạnh, nên tránh cơn bão táp và lui về quê quán hoặc cương quyết đi theo bạn đồng sự đã vạch đường lên trời bằng gương mẫu lòng kiên trì vinh hiển. Tất cả đều hớn hở lạ lùng, họ đồng thanh lán tiếng tỏ ý muốn noi theo người và họ không còn ước muốn nồng nàn nào khác là tỏ lòng kiên trung thờ phượng Thiên Chúa bằng hiến dâng tính mệnh vì Ngưòi. Chân phúc Anrê sinh quán trong tỉnh Phú Yên, thân mẫu là Gioanna, rất sùng đạo Kitô, bà đã nhiều lần nài xin tôi nhận Anrê vào số các học trò của tồi. Anrê có một tỉnh thần sắc xảo, rất có sáng kiến và máng cỏ chúng tôi làm năm ngoái vào dịp lễ giáng sinh, đã được tất cả phủ xem thấy và ca ngợi, chính là tác phẩm của Anrê. Tuy thày khá gầy yếu về thân xác, nhưng lòng quả cảm thì có thừa, không quản ngại việc gì khi cần thiết, tỉ như phải chèo thuyền lâu giờ, điều rất cần thiết ở đây ừong các cuộc hành trình, thường thường phải đi đường sông hơn đường bộẻ Tôi không lặp lại những gì đã xảy ra sau khi vị tử đạo tắt thở, có liên quan tới những báo oán mà Thiên Chúa công

35

bằng dùng để tuyên bố sự vô tội của thày và quyền thế thày có bây giờ ở trên trời: những việc này đã được kể lại đầy đủ trong bài tường trình về khu truyền giáo miền Đông Ân ấn hành năm ngoái.15 Nhưng tôi không thể bỏ không kể những vinh dự mà Thiên Chúa đã muốn làm sáng tỏ hình ảnh bày tôi khi di chuyển di vật thánh về Macao trong chiếc tàu của thuyền trưởng Jean Resandé người Bồ. Tàu chúng tôi đã thoát tay bọn hải tặc trong cơn nguy cấp, còn mấy tàu khác được trang bị võ khí
N

gay khi cha Gaspar
36

người đồng hương của họ đã dạy cho họ, như người ta nói, biết âm nhạc và đánh chuông với những cung điệu du dương lạ lùng. Thế là toàn thể dân chúng chạy tới nhà chúng tôi và được biết di vật thánh đã tới•

Trong khi đó người ta sửa soạn trong nhà thờ chúng tôi tất cả những gì cần thiết để đón tiếp một cách hết sức tươm tất, hết sức long trọng, Người ta định nghi lễ sẽ cử hành vào ngày Đức Trinh Nữ lên trời, sau trưa, cha giảng loan báo cho giáo dân trong bài giảng. Nhà thờ được huy hoàng trang trí những tấm thảm và nhiều tấm lụa là khác, lấy ở những tấm thường có và cả những tấm khác mượn ở những nhà quyền quí, không ai không vui lòng đóng góp những gì sang trọng nhất để trang trí cho đẹp, cho sang trọng trong ngày lễẾ Người ta dựng một nghinh đài cao lớn phủ thảm rất đẹp và những tấm khác thêu hoa mĩ, đặt lên trên một lá cờ lớn trên đó sẽ để thi hài thánh. Người ta cũng chuẩn bị một chiếc thuyền lộng lẫy vào bậc nhất, còn nguyên xi, trang trí bằng những đồ vật lộng lẫy và hết các thứ hoa tươi. Giờ lễ vừa tôi và chùm chuông đa âm vừa nổi hiệu thì viện trưởng, hết các cha của học viện mặc áo dòng, cùng tất cả các tu sĩ khác đều tiến ra chiếc thuyền giữa đám dân chúng đông vô kể. Thi hài thánh được chuyển xuống thuyền đã sửa soạn, chuông trong khắp thành phố đều vang dạy có cả trống cũng rung cho người ta nghe thấy. Đại bác viên đồng thời châm lửa vào mấy khẩu súng lớn coi như những cỗ đại bác, một cỗ bị vỡ nòng, nhưng Thiên Chúa không để cho một khán gỉa nào, tuy họ chen chúc nhau rất đông, bị thiệt hại, để cho ngày lễ không bị vẩn đục hay bi đát vì xảy ra tai nạn bất hạnh. Chiếc thuyền từ từ tiến vào bờ, bản nhạc sửa soạn dâng kính vị tử đạo bắt đầu lên cung líu lo trên không trung, có kèn túi và những nhạc cụ khác ở trong mấy chiếc thuyên ứang trí lộng lẫy.

37

Mọi người vỗ tay vui mừng khi thấy thi hài vị chân phúc, tất cả không chán ngắm nhìn. Thực ra thời tiết rất thuận lợi và biển rất thanh lặng chỉ có một luồng gió êm ái cho mát không khí, bed vì vào mùa này thường rất nóng bức không chịu nổi, hình như tất cả những nguyên tố đều đóng góp phần tốt nhất cho mình, cùng đồng tình làm cho buổi lễ tốt đẹp hơn. Thuyền trưởng đã đợi chúng tôi, cho tới lóc này: ông trao thi hài thánh cho chúng tôi và thực ra là thuộc về chúng tôi cách rất chính đáng, VÌ là một hậu quả của các cồng việc toàn dòng chúng tôi để truyền bá Phúc âm trong xứ đó: thế rồi một tràng súng nổ làn thứ hai, ca đoàn hát, nhạc khí lên tiếng du dương mừng rỡ. Khi thi hài thánh từ chiếc thuyền đưa lên thì được đặt trên nghinh đài lộng lẫy đã dọn sẵn chờ cuộc rước bắt đầu vổi lớp lang thứ tự rất uy nghiêm, tuy rất đông người tới dự, quần chúng chi góp thêm sự huy hoàng chứ không làm ồn ào lộn xộn. Tất cả học viện của chúng tôi đều mậc đồng phục chỉnh tề, tay cầm cành lá trang điểm khác nhau bằng đủ thứ sáng kiến lụa là, vàng bạc. Theo sau là đám đông vô kể công dân thành phố vổi đuốc sáng cầm tay, rồi tới các tu sĩ tất cả đêu cầm nến sáp ưắng. Rồi tới một hàng ngũ các linh mục triều vị vọng nhất trong xứ mặc áo dòng, cùng các cha dòng chúng tôi khiêng di vật quí trọng. Càng qua các phố thì không khí càng tỏa hết các thứ hương thơm ngào ngạt của đủ thứ hoa đẹp nhất trong mùa từ cửa sổ ném xuống từng bó lớn, cũng như nước hương thơm ngưòi ta đổ đày bình ở các nơi khác. Trong suốt thành phố người ta dựng nhiều vọng đài chói lọi vàng bạc và đủ hết các thứ lụa là đẹp nhất, thổ sản trong những miền này, lại có những tràng pháo nổ ran , với âm nhạc nổi lên mỗi khi nghỉ ở vọng đài. Sau cùng thi hài thánh tới nhà thờ chúng tôi: người ta phải khó khăn lắm mói vào được vì số người đông vô kể- ở đây thi hài được đặt giữa lòng nhà thờ trên một thứ giường cảnh đã

38

dọn sẵn, với rất nhiều chân nến bạc cắm nến có trang trí lộng lẫy chung quanh. Các học viên của chúng tôi thì tiến gần đài, cử hành nghi lễ rất long trọng: khi đi ngang thì cúi sâu bái kính, rồi đặt dưới chân vị tử đạo những nghành cây cầm trong tay và sau cùng che khuất hết thi hài thánh. Và thực ra rất hợp lý vì để đoạt được ơn tử đạo thì phải kiên trì hiến thân cho đến chết. Nhưng cả những cành lá, cả hết những hoa khác đặt đay tràn trên chiếc gường cảnh, không ở lâu trên đó, vì dân chúng có

lòng thành kính mến tranh nhặt làm di vặt thánh và ai nấy đều chịu cực nhọc để lấy đem về nhà một chút kỷ niệm di vật thánh. Sau khi đã qua sự chen chúc vì quá nhiệt tình thì các ca nhạc sĩ bắt đầu cho nổi bài hát ca tụng đức tin, rồi tói bài Te Deum Laudamus (“Chúng ta ca tụng Thiên Chúa”) rất ừang trọng, rất lâm li. Cuối cùng cha viện trưởng mặc áo chầu rất sang trọng bước lên bậc bàn thờ chính và đọc led nguyện tạ ơn, thế là kết thúc tốt đẹp buổi đón tiếp linh đình thi hài vị chân phúc Anrê, tiên khởi tử đạo Đàng Trong. Rồi thi hài được để dưới gầm bàn thờ Thánh Thể và đây lại thêm một di vật mới cho học viện chúng tôi, nơi tàng trữ mấy hòm di vật các tử đạo, bất khuất Nhật bản, giữa những bức họa các tử đạo Nhật thì đặt bức họa vị tử đạo mái này, do một ứong các thày của chúng tôi họa tên là Mathêu Van. Sau buổi lể long trọng kết thúc không tai nạn nào, tuy ứong khi châm lửa vào súng thi cổ hai hay ba khẩu vỡ giữa đám đông dân chúng, để ghỉ nhớ tất cả những sự việc xảy ra thì cha viện trưởng xét là nên thảo một tờ biên bản chính xác, đặc biệt để cổ thể đến lúc trình lên tòa thánh. Người ta liền cho tìm trong thành phố Macao hết những người Bồ cũng như người Đàng Trong đã có mặt ở xứ Đàng Trong khi xảy ra vụ tử đạo chân phúc Anrê, để lấy chứng từ về cho những gì họ biết về vụ này. Người ta đã nghe và điều ưa 23 người, có 6 người chứng kiến và 17 người khác chỉ nghe nói, Ông Antonio de Silva, công chứng viên tòa thánh được viên cai quản tòa giám mụv Macao đặt làm thư ký để ghì nhận các lời khai của chứng nhân. Vụ án được biến diễn hoàn toàn tốt đẹp với tất cả các thủ tục, ông quạ quyết rằng ở Macao đã thấy nhĩèu vụ án khác về nhiều vị tử đạo, nhưng chưa được nghe những bằng chứng nào xác thực bằng những chứng từ về vụ này* Ba phụ bản đã được gỏi vê Âu châu qua ba chuyến tàu khác nhau. Nguyên bản của vụ án thì được giữ trong vãn khố tòa giám mục.

40

Cuối cùng để kết thúc bài tường thuật về lễ long ừọng này, tất cả sự huy hòang và cao cả người ta đã đóng góp làm nẽn thì vượt quá những điều tôi có thể kể ra đây, tôi đã bỏ bớt nhiều việc chính yếu để cho ngắn gọn hơn, tất cả đã làm cho lương dân sống ở đây trà trộn với giáo dân, có những tâm tình cao quý và tư tưởng rất trọng vọng về đạo thánh ta và về sự cao cả của Thiên Chúa, lương dân đã thấy tận mắt những danh dự huy hoàng và khôn tả người ta dành cho những kẻ hết lòng phụng thờ Ngưòi và liều đến cả tính mạng để xưng tụng đức tin.17

IV Tường thuật về xứ Đàng Trong (tiếp theo) Những cơn bát bớ

C

húng ta hãy txở lại xứ Đàng Trong. Tôi bó buộc phải ở lại vì có sự bắt bớ mà ngọn lửa tuy vậy vẫn chưa dập tắt bởi máu vị tử đạo; trái lại nó còn bùng cháy hơn ứong các tỉnh Quảng Ngãi và Qui Nhơn và cho tới nơi nó đã nhóm mồi. Chính viên quan đã ra án tử hình cho vị tử đạo của chúng ta, đã phái một trong các viên chức đến bắt giam ngục và ứa trấn các Kitô hữu. Ông bắt đâu thi hành ở tỉnh Quảng Ngãi. Ông cho bắt mấy người Kitô hữu cho ứa tấn để họ nộp các ảnh thánh, tràng hạt và sách đạo, tuy có mấy người bị ứa tấn đã nhượng bộ, họ đã hèn nhát vâng theo, nhưng có mấy người khác tỏ ra bất khuất kiên trì trong dịp này, họ tự nguyện hi sinh chịu hết các cực

41

hình hơn là ném những trai ngọc quí cho thú dữ nhơ bẩn. Ngoài ra còn có một bà đã có tuổi, bà tỏ ra bất khuất, chịu hết các khổ hình người ta đưa ra tra tấn bà suốt một đêm ròng, bà khồng bao giờ chịu khai ảnh lớn trong nhà thờ giấu ở đâu, bà thà chịu tàng tật trong thân thể han là tỏ ra bất trung với Thiên Chúa. Sự trung thành của một người khác tên là Antôn cũng rất đặc biệt. Ông là một người thợ quá nhiệt tình của Phúc âm, nhờ những lời khuyên dụ của ông mà ông thu phục được hết các người lân cận xin chịu phép rửa tội, không còn ai là lương dân ở canh ông. Vì sợ những mầm non nớt dễ bị luồng gió giận dữ bẻ gẫy, nên ông cho hội tất cả ừong nhà thờ chính ông đã cho dựng ữong khu nhà ông ở và ông nồng nàn dẫn dụ họ phải can tràng, ông hứa vói họ là ông sẽ trả lời quan tòa thay cho tất cả. Hơn nữa, ông thu hồi tràng hạt và ảnh tthánh đem giấu ở một nơi chắc chắn và để cho người ta khống sao tìm được tang chứng gây nguy hiểm cho tính mệnh, ông thêm nếu người ta bắt nộp tiền phạt thì ông một mình hứng nhận hết. Ông đã chi li hoàn thành lời ông hứa: vì thế các Kitô hữu nhờ những việc bác ái và thân thương của ông mà được kiên trì rất đặc biệt, sẵn sàng đối phó với mọi biến cố Thiên Chúa dùng để thử niềm túi và đức can tràng của họ. Bây giờ tuy Thiên Chúa cho phép nhân đức của bầy tôi Ngưòi được điêu luyện bằng đau khổ, nhưng phép công bằng Người cũng giáng xuống quân vô đạo đưa tay thi hành quá nhiều bất nhân tra tấh họ. Một trong nhũng kẻ bắt bớ ác liệt nhất đã bị đau cuống họng rất ừầm ứọng, đến nỗi đã tát thở sau hai ngày bệnh. Một người khác đã tố giác mấy Kitô hữu tuy đã nhận được nhiều điêu lành: y bị phạt vì vô ơn bạc nghĩa và ngã bệnh nặng. Viên quan đã giam tù họ trong nhà thì cũng bị trừng trị vồ sự tàn ác của y, bởi vì y bị mất của cải và sau ít ngày thì đã chết mất 50 con trâu người ta dùng làm việc ở đây như bò của ta và là một phần tài sản của y; nhưng quan man di như một Pharao thứ hai, y trở nen ngoan cố bởi những hình phạt chứ

42

không phải cải tà qui chính. Viên thư lại của quan tòa sau đó đã tới tỉnh Qui Nhơn, còn gọi là Pulocamby. Tôi đã loan báo cho các Kitô hữu phải đê phòng, giấu sách thánh với những đồ đạc phụng sự khác và can đảm chịu mọi sự tấn công. Thế nhưng con sói cướp phá đã bất thần bắt được mấy người ít thận ừọng và đã cướp được ảnh thánh và tràng hạt. Nhưng họ kiên trì trong đức tin và con số đồng đến nỗi viên thư lại ghi trong sổ tới 700 thì nay bỡ ngỡ thấy quá đông. Vì ngán không muốn ghi thêm nhiều quá như thế y chỉ chọn mấy người và dẫn tới trước mặt quan tòa. Thật là một cảnh tượng rất đáng được các thiên thần chứng kiến, khi thấy niềm vui của những giáo dân vì ao ước được dâng tính mệnh mình để phụng sự Đấng Cứu Thế. Chỉ có 30 người được chọn trước sự luyến tiếc và chán nản lành thánh của những người bị đuổi về. Ba chục người này ra mắt một cách rất can tràng đến nỗi viên thư lại không còn gan dạ tra hỏi xem họ có phải là Kitô hữu hay không: nhưng chi hỏi xem họ có muốn sống hay không mà thôi. Câu trả lời đồng thanh và rất kỳ diệu của mọi người là: vâng, chứng tôi muốn sống nhưng là sống đời đời và chúng tồi mong đợi ở một mình Thiên Chúa mà thôi. Vì tôi đến đó để giúp họ trong cơn túng cực, nên tôi đã được gặp họ trước khi cống bố bản án. Vì thời giờ cấp bách, tôi không khuyên dụ họ làm việc ăn nãn tội, tôi thận trọng giải tội cho họ vào ban đêm, trong nhà họ bị tạm giam và tôi còn dâng thánh lễ, trang bị cho họ bằng bánh •kẻ cường tráng để giao chiến cho ngày mai. Vào ban sáng, quan : tòa chỉ đòi có sáu người đã mang gông ở cổ, một người là Antồn Ngư mồi thành Kitô hữu được ít lâu nay, nhưng rất nhiệt tâm, tôi đã trao cho bổn phận coi sóc nhà thờ từ hai năm nay. Người thứ

hai là Phêrô Lao, một bổn đạo cũ, tay lái thuyên, tự nguyện lo cho các linh mục, chèo thuyền đưa đi khắp xứ, tùy theo sự cần thiết. Bốn ngưòd khác cũng kèm theo. Có những người tự nguyên xin cho được vào số đổ, có hai người nhân đức đặc biệt cần phải ghi ở đây, đó là một người cha đã có tuổi và người con, con thì cho cha là già nua tuổi tác không sao mang nổi gông cùm, nên làm hết sức để tranh chỗ, cả cha lẫn con đêu không được nhận. Sáu người vô địch can ừàng bị điệu qua các phố, cổ mang gông nặng, làm thành đám rước vui cho thiên đàng và đáng lo sợ cho hỏa ngục. Quan trấn thủ ngần ngại việc bảo vệ các Kitô hữu, nên bàn là cho giải họ vê phủ, nhưng ông Nghè bộ phản đối, ông truyền cho họ lần này phải bị cạo đầu và bị đánh trượng trên bả vai: bản án liền được thi hành ngay tức khắc. Hình phạt cạo trọc đầu là một trong những xỉ nhục thê thảm người ta có thể làm cho dân nước này, họ coi như một sự chuẩn bị đưa đàu cho đao phủ chém. Các chiến sĩ can tràng của Đức Giêsu Kitô đã mong mỏi sự sỉ nhục này từ lâu với rất nhiều vui sướng, họ cho mình rất có phúc vì được mang những vét tích khinh bỉ vì lòng mến yêu Người. Việc thi hành bản án vô nhân đạo này không phải là không bị trừng phạt vê phía lương dân, vì vừa mới thi hành xong thì có lửa bén tới ba nóc nhà ở Quảng Nam, y như đã xảy ra sau vụ Anrê tử đạo. Ông Nghè Bộ rất hãi sợ vì những tàn phá do vụ hỏa tai này gây nên, đến nỗi ông không dám cấm đạo ta như ông đã đe lcd chúng tôi bằng những lòi lẽ hỗn xược. •

Người ta liền tha các tù nhân vê nhà, nhưng để không cho họ có phương tiện trở lại làm các việc đạo thì quan tòa ra lệnh cho triệt hạ các nhà thờ ở Qui Nhơn, Bến Đá và Quảng Ngãi. Các Kitô hữu ở vùng thứ nhất đã vận động rất khéo, nhờ trung gian bà vợ quan trấn thủ, một nữ giáo dân cũ,18 nên nhà thờ của họ chỉ bị phá có một nửa; họ hy vọng sẽ sửa lại cho tươm tất, sau khi cơn bạo táp qua đi. Có mấy nhà thờ khác cũng thoát

4

44

tay thù địch và họ lại hội họp nhau, tuy rất kín đáo, vào các ngày chủ nhật và ngày lễ. Tôi lẩn trốn trong một chiếc thuyền hơn một tháng, dùng thuyền lúc thì đi đây khi thì đi đó, đé khích lộ giáo dân bằng các phép bí tích. Tôi cũng rửa tội cho mấy lương dân, tuy ở giữa cuộc bắt bớ mà cũng can tràng tin theo; tất cả đêu tỏ cho tôi biết họ cương quyết thí mạng sống để bênh vực đức tin. Trong những cuộc hành trình này, Thiên Chúa cho chúng tôi dịp tốt để chịu sự gì vì danh dự Người. Một hôm Phêrồ Lao, tay chèo thuyên tốt lành, phục vụ chúng tôi một cách trìu mến trong các cuộc hành trình làm việc tông đồ, ông đã đưa vào nhà tôi một ten trinh thám để quan sầt chuyến đi về của tôi, y nghĩ trong bụng là thuyền chúng tôi chính là chiếc thuyền của những tên hải tặc ít lâu nay đã cướp một chiếc tàu của các nhà buồn, thếlà y vội vã, không điều tra thêm, tố giác chúng tôi noi quan tòa địa phương, ông này không làm theo thủ tục của một vụ án, đã cho người đến bắt chúng tôi. Thuyền chúng tôi tức thì bị chặn lại và quân lính xông tới đấm đánh các bạn đồng hành của tôi và có một người trong bọn chúng đã bắt dầu trói chúng tôi, còn những quân khác chín chắn hơn đã ngân y không được làm quá. Chúng chạy tới nhà của Phêrô và cướp phá, trói anh và đập đánh anh dữ dằn, nhưng quan tòa được tin đích xác hơn, thì ngày hôm sau đã tha chúng tôi và truyền trả chúng tôi hết những gì đã cướp của chúng tôi, Sự mất mát về vật chất thì chẳng quan trọng gì cho lắm, chúng tôi cho là chẳng đáng gì, chỉ được lọi ích là đã chịu một chút đau khổ, hơn nữa, do việc này mà chúng tôi không còn sống lẩn ừánh được nữa. Cấc Kitô hữu ưong địa phương này tuồn đến rất đông để chịu các phép bí tích. Tôi rửa tội cho ba mươi lương dân ở một nơi và ở một nơi khác bảy mươi, tất cả đêu được thày giảng Antôn giảng dạy rất kỹ lưỡng; trong khi vắng tối thì thày cũng làm các phép bí tích cho nhiều trẻ em và mấy người lớn, tất cả

đều ở ữong tình trạng nguy cơ hấp hối, theo những mệnh lệnh tôi đã ban bố. Về công việc ở đây thì rất nhiều, hơn nữa, vì không muốn chọc tức lương dân nhiều hơn, làm cho họ chống đối tôi, thì tôi cho phao tin đồn là tôi đã bỏ xứ này sớm rồi, trong khi đó tôi rút lui kín đáo trong nhà một bà Kitô hữu tên là Paula Can, nơi có đủ hết các thứ cần dùng cho việc thừa hành chức vụ thánh, Bà này làm gương rất tốt lành về cách ăn ở, cũng như ông chồng đã qua đời, bà có một con gái đã có chồng và đã tha thiết xin Thiên Chúa cho được một con trai để dâng nó làm việc phụng thờ Người. Bà được Thiên Chúa nhận lời, nhưng một cách thuận lợi hơn mà chính bà cũng không mong đợi: bởi vì đứa bé mới được tái sinh trong nước phép thánh táy thì Thiên Chúa đã đem nó về với Người để nó ca tụng Ngưòi ngàn kiếp trôn Thiên cung. ít lâu sau bà mẹ trẻ tuổi này cũng qua đời; sau khi chết, bà đã hiện về với mấy họ hàng giữa một ngọn đồi lửa, bà pHàn nàn về họ, bà rên ri nghe rất ghê sợ, vì họ không giúp bà chóng ra khỏi những lò lửa đáng ghê sợ. Một trong những người này đã thấy bà trong một tình trạng ghê rợn đã kể cho tôi nghe và xin tôi dâng thánh lễ cứu vớt bà, tôi đã làm và bà không còn hiện về nữa, và những rên ri khóc than cũng ngừng. Tôi buộc lòng ra khỏi nơi trốn ẩn một vài Tân để phục vụ các Kitô hữu, tỉ như đến một làng người ta làm muối, ở đây tôi được Hỉerồm Giáp và bà vợ tiếp đón rất thân thương, cả hai đêu làm ăn khă giả, nếu vì tôi mà phải mất hết của cải: sự lạ lùng của lòng hiếu khách, tôi ở nhà họ bốn mươi đêm ngày, đêm ngày thừa hành chức vụ, cho Kitô hữu cũng như cho lương dân, có mấy người xin trở lại đạo. Chủ nhà có lòng tốt tỏ ra rất thực tình, bởi vì họ trao phó trong tay tôi người con trai 17 tuổi, có tâm hồn rất tốt và đã khá thông tình chữ Hán, để phục vụ Thiên Chúa. Ý cha mẹ khi muốn dâng con cho Thiên Chứa, là để cho anh gặp một hoàn cảnh như hoàn cảnh vị tử đạo Anrê; họ cho mình khổng thể tìm

4

46

được cho con một phần phúc thuận lợi nào hơn và chính anh cũng mong được phúc ấy vì từ ba năm nay anh khẩn khoản, van nài nhận anh trong đoàn thể chúng tôi. Các người cha mẹ khác cũng bắt chước họ mà can đảm dâng con mình cho Thiên Chúa để suốt đời chúng thoát li những gì thuộc thế trần. Một thanh niên khác ba mươi tuổi cũng đến gặp chúng tôi, anh chủ ý tự nguyện nhưng vì anh không biết chữ nên anh bằng lòng nhận hết các việc hèn hạ trong nhà, chủ ý là được một ngày kia Thiên Chúa cho người đồng hương của anh được chết lành. Thế là nếu kể những người này với mấy người trước, thì tôi có tất cả mười hai tay thợ tốt, tôi xử dụng họ tùy sự cần dùng trong lúc, để truyền bá phúc âm, thực ra tất cả đều tỏ ra rất cương quyết chịu hết mọi việc khó nhọc, kể cả sự chết, và tôi có thể gọi họ là những thí sinh tử đạo hay đăng ký tử đạo* Cũng trong làng này tôi đã mừng lễ Giáng Sinh19 trong một nhà rộng lớn đã được trang trí tươm tất, nhà này thuộc về một người tên là Nicolas Hao một Kitô hữu kì cựu nhất, đã được chịu phép rửa tội từ 25 năm nay đo cha Fracesco Buzomi thuộc dòng chúng tôi và là người đàu tiên tới khu truyền giáo này, năm 1615. Chúng tôi đang chuán bị các nghi lễ thánh, tới một hôm, lúc tôi sắp dâng xong ván lễ, có quân lính của một viên quan đột nhập vào nhà để bắt các Kitô hữu đem giam tù, chúng đinh đuổi theo bắt không biết những lương dân nào trong địa phương này; nhưng Thiên Chúa không cho phép chúng chộp được tôi hay bắt được họ. Chúng chi bắt được một ông già hiền 'lành, ông này ngày hôm trước đã đến từ làng cách xa chừng một ngày đàng để được xưng tội và rước lễ, đem theo hai đứa cháu bé đé xin cho chúng chịu phép rửa tội. Chúng đã hành hạ ông già rất đữ dằn: còn ông già thì chịu đau đớn, trong khi chúng đánh đập ông thì ông không ngừng lởn tiếng nhắc đi nhắc lại mình là người Kitô hữu và muốn chết là người Kitô hữu. Chúng ưa hỏi xem4‘Ông cha” ở đâu? thì ông

già đáp là vì ông mù lòa nên không thấy. Chúng lại tra tấn ông, cùm chân ông theo tục xứ này, nhưng Giuse, tên ông già, kiên trì xưng đức tin, không hề muốn khai báo. Tôi ở gần đó và nghe hết những gì xảy ra và tưởng là sau đó chúng xông vào chỗ tôi ẩn. Tôi đang đứng bên bàn thờ và hết sức cẩn thận để dâng xong thánh lẽ: tôi liền quyết định ừao thân cho bọn lính, nhưng chủ nhà cực lực phản đối, nên tôi không đi xa hơn và sau khi đã lục đủ hết các xó nhà thứ nhất này mà chỉ tìm thấy vài cây nến, thì chúng đem theo và trở về khai trình công việc với viên quan, và thế là nhẹ nhàng kết thúc cơn bão táp. Tôi tiếp tục giải tội, nhưng các Kitô hữu cho là tôi không đủ an toàn ữong nhà này, nên muốn cho tôi chuyển sang một nhà khác kín hơn. Ở đây tôi lại làm các phép bí tích và hơn nữa, tôi rửa tội cho 22 ngưòi tân tòng, tất cả đêu được chuẩn bị để bảo vệ đức tin cho tóti chết. Dân chúng hội họp mừng lễ nửa đêm thì rất đông, có hơn 500. Theo tin cho chúng tôi biết thì cũng chính bọn lính đó sẽ trở lại, tôi liên chóng vánh cho tháo gỡ bàn thờ và cho các Kitổ hữu rút lui: bọn lính hầu này đã trở lại lúc tảng sáng, chúng bắt được vài ba người Kitô hữu và trói điệu đi. Thày giảng Inhaxu cũng ở trong số này, Vì mệt nhọc khuyên dạy và giảng giáo lý suốt đêm thánh, nên thày buộc lồng phải nghỉ đôi chút cho tối sáng. Vì thày xưng là thày giảng nên chúng trói thày rất chặt đến nỗi thày như nghẹt thở, có một tên có chút lòng nhân đạo hơn đã nhận thấy và vì sợ thày chết trong tay chúng nên cho nới giây, nhưng không cho phép thày ăn uống được, ứong khi đó chúng để tự do cho những người khác. Nhưng vì tất cả làng đều kéo nhau đến nhà này, thi Inhaxu lên tiếng giảng giáo lý đạo ta với một nghị lực kì diệu làm cho lương dân sửng sốt về những điều nghe thấy, tất cả đều làn lượt rút lui, bỏ lại các Kỉtô hữu, không dám đem giam một ngưòi nào.

4

48

Thấy quân thù đã rút lui và được tự đo thì họ tự tháo cởi giây trói, chỉ còn thày giảng Inhaxu là muốn giữ những giây buộc, đem theo như những đấu ấn đại thắng và để được sẵn sàng được người ta dễ dàng bắt đi nếu xảy ra một cơ hội mái để chịu đựng vì phục vụ đức Con Thiên Chúa. Nhưng rồi thày cũng bằng lòng để cho người ta tháo cởi ngay khi tôi ra lệnh truỳên cho thày, thày lấy đức phục tòng cao cả và vâng lời hơn tất cả những ước muốn nồng nàn nhất là để được phúc tử đạo. Thày phán đoán rất đúng vì đức vâng lòi thì giết hết ý riêng, nó qa'o quí hơn mọi phúc tử đạo, lòi Thiên Chúa phán: vâng lời hơii của lễ. Cơn bão táp sau đó lại bắt đầu: vì viên quan trong làng tôi ở, y thấy tôi vẫn tiếp tục làm các phép bí tích, nên y đem theo một toán lính bắt tôi và thày giảng Inhaxu cùng mấy người Kitô hữu chính yếu, y giao chúng tôi cho các viên chức trong làng đã hội họp nhau để canh giữ. Suốt đêm chúng chất vấn tôi về nhiều điêu riêng biệt của đạo ta. Nhưng lương dân thỏa mãn về lời tôi giải đáp, tất cả đều hài lòng và phục lý lẽ, họ sẽ vui lòng tin đạo nếu đạo ta không bị bắt bớ và nhà chúa không cấm đoán. Tôi đối đáp lại rằng điều này xảy ra ở hết các nước, thoạt ban dầu đạo bị bắt bớ nhưng sau đã được đón tiếp với mọi danh dự và thường thì người bình dân là kẻ đầu tiên tín đạo nhu đứa trẻ mgoan ngoãn dê dạy, rồi các vua các chúa và những bậc quyên quí mới theo sau. Một người có tuổi hơn cả và như lý trưởng haỵ xã quan trong làng đó đã cho tôi biết là ồng rất hài lòng về tất cả những gì thuộc về đạo ta, nhưng ông không thể ưng chuẩn hay am hiểu, tại sao người ta nhiều Fân tha tội cho kẻ đến xưng tội: ừ, thì tha cho một, hai lân thế là tốt (người lương dân nói) như nhà chúa ơn xá cho kẻ trộm cướp, thinh thoảng đến lần phạm thứ hai, nhưng lần thứ ba, thì ngài không tha. Tôi cũng công nhận ngưòi ta tha một, hai Tân, theo luật các ông, cho những kẻ lỗi phạm

liên tiếp, còn tha liền liền bốn, năm, sáu lần theo sự chúng ta xin, thì tôi không thể nhận được. Nhưng đé bắt bẻ lại lời đè kháng thì tôi dùng lời Chúa chúng ta đáp lại cho Thánh Phêrô trong một trường hợp tương tự là bao nhiêu lần tội nhân thành tâm xin Thiên Chúa thứ tha thì Người muốn cho những kẻ Người đã ủy quyền cho, rộng lượng nhận tha cho nhân danh Ngưòi; lại nữa suốt cuộc đời người ta yếu đuối, thường liên tục sa ngã, thì cũng được lòng từ bi Thiên Chúa tha thứ, bao lâu còn là thời tha thứ; nhưng không còn trông được thứ tha khi đã qua đời sau, khi bị những khốn khổ đời đời dành cho những kẻ đã từ chối không biết lợi dụng thời từ bi ân xá. Vào tảng sáng, tôi xin bọn lính canh cho phép tôi dâng thánh lễ, được nhận lời, tồi đã dâng thánh lễ ở nơi này khá tươm tất xứng đáng. Lương dân khen ngợi các đồ đạc, sự chỉnh tề và sạch sẽ nờx bàn thờ, cùng tất cả những nghi lễ đẹp đẽ trong phép tế lễ. Cũng sáng nay tôi bị điệu tới một viên quan cấp trên* Một bên lương dân đắc thắng vì đã bắt được tôi ở dọc đường, một bên các Kitô hữu bất hạnh không thể bỏ tôi nên kihóc lóc, rên ri. Quan tòa tra hỏi tôi, tại sao tôi giảng dạy thứ đạo mà nhà chúa không muốn cho thần dân ngài tin theo. Tôi đáp, đây là đạo Thiên Chúa thật, Vua hoàn vũ, hết các vua dưới đất phải vâng phục Người. Tôi thêm rằng tôi giảng dạy đạo Thiên Chúa tức là tôi làm theo ý Người, chính Người truyền cho đạo phải được truyền bá và tuân thủ khắp năm châu bốn bể, còn nếu ông xét ông vâng theo chúa ông là điều phải thì tôi cũng muốn phục vụ đức Chúa các chúa của tôi, tôi đã rời bỏ đất nước tôi từ 27 năm nay,20 tôi đi giảng đạo khắp các nơi tôi chẳng mong gì tốt đẹp hơn là được đổ máu ra. Ong còn tiếp tục tra hỏi tôi về những người theo tôi, thì thày giảng Inhaxu nắm ngay lấy cơ hội, cho ồng biết những bằng chứng cao cả về đức tin, nhờ vào ánh sáng đức tin này, thày cả quyết đã phát hiện kêu rõ ràng và rất sốt sắng hai thánh danh Giêsu Maria. Tên đao phủ chưa thấy mình thành công trong nhát dao thứ nhất

4

50

thì đâm thêm ba nhát nữa làm cho ngực mở rộng một phần lớn, vị tử đạo hiển vinh vẫn còn luôn lán tiếng kêu thánh danh. Sau những nhát đâm liên tiếp này thì đầu thày hơi nghiêng về bên phải: một tên đao phủ khác chém một phần lớn cổ, đao mã tấu chém hai nhát, thế là chân phúc Anrê của chúng ta ngã lãn xuống đắt như thể cây tốt, về bên tay phải; thày còn lắp lại, lúc (fâụ rod xuống đất, như các ngưòi Bồ có mặt trong táh bi kịch đẫm huyết đã khai là nghe rõ ràng, qua lỗ mở của cuống họng, giữa một dòng suối máu tuôn trào, danh thánh Giêsu nhờ công nghiệp Người và việc tử đạo vội vã này mà thày đã chiếm được triêu thiên vinh quang (bởi vì cả việc cầm tù, việc tra khảo, việc xét xử, cả việc kết án và cái chết đêu được thi hành chưa ? « • đầy trong vòng một ngày). Tức thì chúng tôi cầm khăn chạy đến hứng máu quý giá tuôn ra tới tấp từ những mạch máu đến nỗi nơi thày nằm ướt đẫm. Những ngưòi Bồ quen giữ lòng đạo đức có mặt trong cuộc đại thắng vinh quang này, họ cẩn thận thu nhặt các di tích thánh, cắt áo chia nhau mỗi người mỗi mảnh, còn đất và cỏ có thấm máu vị tử đạo thì cũng được chu đáo dành riêng cho một người Kitô hữu của chúng ta: có người tên là Antôn đã đưa tới một tấn i áo rất có giá để bọc xác thánh. Lương dân rất bỡ ngỡ thấy những điều mới lạ và nhũng vinh dự dành cho thi hài và tưởng nhớ người mệnh một. Tôi lợi dụng cơ hội nói cho họ biết những lý do chính đáng của những việc đạo hạnh này rằng: trước mắt những kẻ không hiểu biết thì vị tử đạo như đã chết, nhưng trước mặt Thiên Chúa là đấng thấy tương lai như hiện tại, thì vẫn còn sống, hoậc là hồn vĩnh viễn từ đây sống trên Trời, hoặc thân xác đến thời thì sẽ sống lại đầy hiển vinh và tuyệt mỹ để muôn đời ngàn kiếp sống nơi Thiên Chứaằ những sai lầm của các đạo ừong nước và vì nhận được ơn Thiên Chúa ban, thì tất cả mong ước của thày là làm sao cho tất cả đồng bào đồng hương của thày bỏ những đạo giả trá, chỉ •

dẫn cho thấy con đường về Tròi để họ làm cho rất nhiều người tin theo phục vụ Thày Cao cả. Viên quan sửng sốt về chí cương nghị của Inhaxu và bằng lòng về những lòi lẽ của tôi, ông bảo tôi là ông không có gì liên quan tới tôi hay với những người của tôi, nhưng có ba Kitố hữu làng này thì phải giam ngục. Cuối cùng là đi đến một món tiền phạt. Tôi nhanh nhẩu lo liệu hết sức có thể, tôi trả cho họ theo sự có thể của tôi và xin các Kitô hữu khác gom góp dể cho các tù nhân được nhẹ tội. Các Kitô hữu đều đồng tình đé tôi rút lui đi nơi khác. Người ta chọn một giáo dân là em của viên quan đã bỏ tù tôi. Mười ngày sau có lệnh của viên quan cao cấp hơn bắt tôi phải xuống thuyền và ở đây như bị quản thúc, không được ra khỏi đó, cho tới khi nhà chúa quyết định về tôi, chiều theo ý ngài. Thế nhưng, tôi sai người của tôi đi các ngả để cho họ thoát khỏi tay chúng và thoát sự hung dữ thù nghịch, chúng phao tin là người ta định bắt giam tôi và xiềng xích gông cùm tất cả điệu về phủằ Có mấy người đồn một tin khác chống đối tôi, họ nói nhà chúa muốn trục xuất tôi khỏi hải cảng, không cho ai đi theo để tồi không còn trở lại trên đất nước ngài, nhưng tất cả những tin thất thiệt này đều tan trong không khí. Tôi ở trong thuyền như bị giam chừng hai tháng, không được tự do ra khỏi. Các Kitồ hữu đến xưng tội; vào nửa đêm tôi qua chiếc thuyền khác đến các nhà, rửa tội cho nhiêu ngưcd, ở nhiều nơi, họ đã xin trở lại đạo. Tôi cũng dâng thánh lễ và cho những ai đã sẵn sàng được rước lễ. Mùa chay đã tới, tôi dự định làm phép tro, giáo dân từ mấy năm nay chưa được dự. Viên quan Inhaxu trả dâng nhà khá rộng, tối nhận. Viên quan cao cấp hơn cho phép tôi lên trên đất liền, cho tới khi thuyền tôi vì quá mục nát được sửa cho tươm tất. Số các Kitô hữu thì rất đông, họ tới dự nghi lễ thánh với những tâm tình toại nguyện lạ lùngễ Vì phải xưng tội theo luật bó buộc trong mùa chay, nên

5

52

Thiên Chúa lại thử thách các bày tôi Người bằng một khó khăn mới. Số là có viên quan đến nhà chúng tôi để bàn một công việc với chủ nhà. Vỉên quan này (không ai biết) có nhiêm vụ điều tra các Kitô hữu, trong lúc đó có ba mươi giáo dân đang ở trong một gian nhà, họ tởi để xưng tội trong đêm nay và vì theo lệ thường, họ đọc kinh vào khoảng gà gáy sớm, họ không muốn bỏ một thói quen tốt, thế là họ lớn tiếng đọc kinh, bọn đây tớ viên quan từ phủ tới, chúng thức giấc và hỏi xem tiếng rức lác chứng nghe tò đâu tới, chúng diều tra xem có truyện gì. Mặc cfâu gia nhân trả lời là tiếng trẻ con tập đọc, theo thói quen ở đây tò sáng sớm, nhưng chúng khồng tin, chúng lăng xăng chạy ngang chạy dọc tọc mạch tìm kiếm và cuối cùng chúng thấy ba chục Kitồ hữu đang đọc kinh. Chúng liền bắt thày giảng Inhaxu cùng hai người ừai trẻ tự nguyên phục vụ Thiên Chúa. Chúng gông cổ cả ba và bởi vì Inhaxu tiếp tục giảng chân lý đạo ta thì chúng cho mang một cái nặng hơn cả. Con người thánh thiện này, rất tinh tường, biết xử dụng mọi thì giờ, mọi nơi để cứu rỗi các linh hồn, nên trong ngục mới này, thày đã chiếm được cho Thiên Chúa mấy lương dân ở trong đó. Đầu đê câu truyện của họ là thế này: đêm trước đây, họ đã thấy bước vào cửa nhà ngục một người vô danh đáng kính, ngưcd đó xem như tód thăm các con bị giam vì mình. Sau đó, khi thấy Inhanxu, thì họ nhận là chính Inhaxu đã qua trước mắt họ đêm hôm qua. Ý nghĩ này làm cho họ rất xúc động, fôi sau khi nghe những lời giảng dạy của thày, thì họ quyết định xin theo đạo thánh, thế là họ làm cho tâm hồn họ được toại nguyên, tuy trước đây họ rất xa cách. Lửa bắt bớ còn bén tới tỉnh Qui Nhơn, các Kitô hữu của chúng ta áy náy về thái độ đi tránh cơn hiểm nghèo và ẩn nấp của mình, nhưng tôi cho họ biết giáo lý của Thiên Chúa chúng ta, là khi bị bắt bớ ở một tỉnh này thì hãy tránh đi tỉnh khác. Theo đó, có nhiêu ngưòi đem vợ con tiến vào rừng sâu, “Lang thang trên đồi trên núi, lang thang trong hầm đất.” Thù địch

phát điên vì không tìm thấy, chúng thả chó săn vào trong rừng để làm hại trẻ con và cho cha mẹ chúng sợ hãi. Nhưng tất cả sáng kiến quỷ quyệt đều vô hiệu. Các giáo dân của ta cho tới những trẻ nhỏ rất yếu ớt đều vui lòng chịu những sự khó khàn, như họ đã tỏ ra sau này khi kể những việc họ làm một cách vui vẻ, làm cho tôi tràn ngập yên ủi. Có những người không thể trốn đi được, trong số này có Antôn Nau và một bạn đồng sự tên là Mathêu, ông này muốn giấu không cho lương dân tìm được tràng hạt, thì bị hành hạ rất dữ dằn và bị đánh đập nhừ tử bằng một cây gỗ rất cứng. Vì Mathêu còn mứi mẻ trong hàng ngũ chiến sĩ đức Kitỏ, nên Antôn coi ông như chưa biết cách chịu đựng trong những thử thách đầu tiên, chưa ăn ở tươm tất như mình muốn. Do đó Antôn lên tiếng khiển trách Mathêu: thế nào, anh, đó là tư cách xứng đáng của anh đó ư? Có phải là lời anh đã nói với cha khi cha rửa tội cho anh là anh tin theo đạo Thiên Chúa trong thcd bắt bớ và anh sẵn sàng hy sinh tính mạng để bênh vực đạo ư? Bây giờ tôi thấy anh không được vui như lúc bình thường? Thế nghĩa là gì? Những lời này đã gợi lòng can đảm của người tân tòng và từ đó ỏng luốn luôn tỏ ra vừa vui vẻ vừa can tràng mạnh bạo hơn trong mọi công việc, cả hai bị giam trong ngục tối, mang hai chiếc gống nặng như những chiếc người ta đưa cho những kẻ gian phi giết người và cướp đường cướp chợ. Tức thì tôi đến thăm họ với phép của viên quan, tỏi đã xin cho tôi được ở với họ, nhưng người ta đã không cho tôi ơn này. Lửa giận dữ bầng bầng nưi lương dân chống đối chúng tôi, chúng cũng không tha các bà Kitô hữu, các bà tỏ chứng cớ lòng nhiệt tình, không sợ hãi gì. Các bà thân hành tự nộp mình cho quan tòa và công khai xưng đức tin. Các bà cống góp phần vào vinh quang trận chiến và công phúc các khổ cực, bởi vì các bà cũng bị trói bằng những thứ dụng cụ bằng gỗ và giây chão, tức là gông cùm; các nhân viên tòa án lôi các bà qua các phố phưòng như những con thú người ta dẫn đi làm thịt. Có mấy bà

5

54

chiếm được giải kiên trì bất khuất, tên là Luxia và Ruffina, cả hai được theo Kitô giáo do bà Paula nhân đức. Một trong các quan cao cấp có tên là Đề lĩnh,21 ông cho là mình mất danh giá nếu không bắt ép các bà bỏ đạo, vì thế ống ra tay tấn công các bà bằng đủ thứ lý lẽ, bằng những lòi dỗ dành cho các bà cải tà qui chính. Luxia ứng đáp: Thưa ông, là Kitô hữu tôi phải cải tà qui chính gì nữa, vê gian dối, tham của ngưòd, xảo quyệt và lừa gạt và về tất cả những gì đạo thánh chúng tôi tin theo ngăn cấm, đó là những điều chúng tôi ăn nãn hối cải: còn hối cải về giới răn Thiên Chúa và xa lìa đức tin dù rất nhỏ mọn thì không bao giờ, ông cứ chém tối, phanh thây tôi ra trăm mảnh, cướp mạng sống tôi, tôi kiên trì chịu hơn là làm trái luật Thiên Chúa, luật rất hoàn hảo, không có gì phải cải tà qui chính. Ý cương quyết cao cả của Luxia làm cho viên quan rất tức tối, ông bực bội và điên lên vì câm miệng không đáp lại được, nhưng để báo thù về sự xỉ nhục ông tự coi như đã chịu thì ồng ra lệnh cho người ta bốn Tân thay gông cho bốn tử đạo, mỗi lần đặt cái nặng hơn để thêm sự cực khổ bởi vì ơ đây người ta coi gông cùm càng lớn thì phạm nhân càng mắc tội nặng. Luxia còn chịu thêm hình khổ này nữa là chân bị cùm bằng một thứ cùm bằng gỗ làm cho rất đau đớn. Thế rồi vì có mấy người động lòng thương thấy các bà chịu khổ cực, bị phơi ra ánh nắng mặt trời, họ khóc nức nở, và để cho các bà được chút bóng mát thì họ lấy nón đội cho các bà, nhưng viên quan như dọa nạt và nói: hãy bỏ đạo Thiên Chúa thì các người có bao nhiêu nón cũng được. Nhưng các bà cương quyết và nổi giận chính đáng, các bà ném ra xa tất cả các thứ che nắng bé nhỏ và lắp lại nhiều lần rằng mình sẵn sàng chịu nhiều khổ cực hơn chứ không hề nao núng ưong niềm tin đã thề với Thiên Chúa. Sau cùng, khi đã lâu giờ làm hết sức mà vô hiệu thì viên quan chỉ còn một dự tứứi là chịu thua mà thôi, ống ra hàng vặ rút lui, xấu hổ vì thấy mình bại trận, thua những

người đàn bà yếu đuối về thể xác nhưng bất khuất nhờ ơn Đức Giêsu Kitô. Cuộc đại thắng này làm nguyên nhân phát sinh một cuộc khác đáng được kể ra đây. Có một bà quyền quí đã hơi hèn nhát tự buồng thả khi viên quan mới bắt dâu đe dọa, nhưng ngay khi được biết những chiến công vinh quang các bà bạn thì đã nhận lỗi và khóc nóc thảm thiết. Rồi bà sai con đến xin tôi tới cứu bà, bà kể cho tôi hết các chi tiết ừong cơn khốn cực bà chịu, bà cũng xin tôi thuốc chữa và tỏ ra rất thối chí nản lòng về sự bất trung này. Tôi đã giúp bà cho bà được can đảm, tồi nại lòng từ bi của Thiên Chúa, Ngưòi thương tình đón nhận hết những kẻ có lòng thành thật thống hối chạy đến Người, còn về thuốc chữa thì ở trong quyền bà, nghĩa là một Tân nào khác, bà trở lại gặp viên quan đã chứng kiến sự sa ngã hèn nhát của bà. Thế là hầu như khi tôi chưa dứt lòi thì bà đã vội chạy đi ngay. Bà không chỉ làm như tôi nói mà còn tha thiết nài XÙI cho người ta buộc vào cổ bà những hình phạt nhục nhã mà trước đây vì sợ hãi bà đã khước từ cách hèn nhát. Nhưng viên quan cho bà về và bảo bà rằng: đến thòi đến lúc ông sẽ không quên. Những ý nghĩ cương quyết đại lượng này, cả lương dân cũng khen ngọi và bắt các quan tòa không làm khổ các bà Kitô hữu nữa, rồi từ những bạo tàn của họ, họ chỉ nhận được sự xấu hổ và bẽ bàng. Người ta vẫn còn lùng bắt các giáo dân khác, có nhiều người bị giam tù. Tôi cũng lại phải chịu một viên quan em của chủ nhà tôi cư trú. Kẻ khốn nạn này vì tham của đời này thì đã hèn nhát chối đạo. Một hôm y đe dọa tố cáo tồi. Tối đã khiển trách tội của y. Y nổi cơn thịnh nộ, bực tức chống đối tôi, nhưng vì không dám thi hành lòd đe dọa, y đã giựt một ảnh Đức Mẹ tôi đã lấy lại được từ tay mấy người lương dân đã cướp được ở nhà một Kitô hữu. Bồi vì tôi kháng cự y. nên y lại đe bắt tôi chịu những cực hình hiểm độc nhất. Tôi đáp; nhưng là những cực hình nào?

5

56

Hơn 50 năm22 tôi phụng sự rất thánh Trinh Nữ và đức Con Người và tôi luôn luôn nhận được những ơn huệ cao cả và không bao giờ có tai họa. Sao tôi lại có thể ãn ở vô đạo, vô ơn bạc nghĩa đem hiến cho thù địch Ngưới bức họa đáng được mọi người và các Thiên Thần thờ kính. Lúc này đây, ông nên biết, tôi sẵn sàng chịu hết thứ cực hình, chứ không bao giờ mắc tội xúc phạm sự thánh ghê gớm đó. Thấy tôi nói cả quyết như vậy trước mặt mấy người Kitô hữu, thì viên quan bị dồn vào tư thế thua trận và bỏ cuộc. Trong khi xảy ra tất cả những bất hạnh này thì có lệnh chúa thả tôi và các Kitô hữu khác bị giam ngục. Họ cho tôi ra ngoài, nhưng tôi đã quyết định không bỏ những người của tôi trong cơn bắt bớ, để cho họ được mạnh bạo chịu những cuộc tấn công, hết sức giúp họ trong sự có thể của tôi, nhưng chính họ bắt tôi phải đổi ý định và theo lòti họ bàn, là tôi trở lại phủ chúa, nơi đây tôi có thể vận động có hiệu quả hơn cho lợi ích chung của đạo. ♦



»

Ở đây tôi không thể không nói tới đức bác ái rất đáng khen của mấy Kitô hữu ở biên giới nước này. Khi được tin tôi bị giam thì họ liền vội vàng lên đường, vượt hơn ba trăm dặm bản xứ, nghĩa là 150 dặm Pháp, chủ ý đến thăm tôi và giúp đỡ tôi trong luc cần dùng, về bản thân và về của cải, cho tôi cũng như cho các Kitô hữu các đang bị cầm tù. Lòng bác ái của họ đáng ghi nhớ muồn đời, đã vượt đến mức thái quá, nghĩa là có nhiêu người trong đám họ hiến thân năn nỉ quan tòa bắt giam họ, hoặc vì chúng tôi hoặc ít ra với chúng tôi. Nhưng quan tòa thích thú thấy những sự lạ do lòng bác ái đặc

biệt, ông cho họ ra vê, ông nại lý do họ ở những địa phương khác, nên không thuộc thẩm quyền ông cai trị. Thế là những giáo dân chính đáng, sau khi đã bắt chúng tôi nhận những ý hướng tốt lành và những bằng chứng đích thực về tình nghĩa của họ thì họ chia sẻ của cải cho chúng tôi, rồi trở về nhà đem theo công phúc của biết bao việc lành thánh. Nhưng hãy trở lại cuộc hành trình về phi; vì đã quá đi xa và không thể bỏ neo ở một bên nào cố người Kitồ hữu, do luồng gió khòng thuận, nên chúng tôi bó buộc phải cho thuyền dạt vào một bờ hoang vu, để cử hành lễ Lá nhằm vào lức này. Người ta dựng một tóp Têu, chúng tôi lấy lá ở một ngọn núi lân cận, tôi làm phép Lá, phát một phần cho các người theo tôi và đành một phần cho mấy Kitô hữu đợi chúng tôi ở dọc đường. Rồi chúng tôi ra khơi, gió thuận trong một thời gỉan, nhưng rồi gió thổi rất mạnh làm cho sóng lay động rất dữ dội chiếc thuyền bé nhỏ của chúng tôi một hồi lâu; khi hoa tiêu muốn bẻ lái đưa vào đất liền thì lái vỡ làm hai mảnh: thế là chúng tôi ở trong tình thế không trông vào thuốc chữa của loài người, giữa lòng biển khơi, làm mồi cho gió bão; nhưng cảm thấy tâm hồn tôi được sức mạnh của Trời để chống lại hãi hùng, tôi khuyên mọi người trong thuyền hãy đặt niềm trn nơi Thiêu Chúa, Nguùi thường tỏ lòng cứu giúp ừong những cơn nguy hiổm rất lớn. Và Người cũng muốn cho chúng ta ra công làm việc vê phiá chúng ta.23 Thếlà nhờ vào một ít lời đó mà mọi nguừi thêm can đảm và tất cả cùng nhau đồng tâm đồng tình bắt tay cầm mái chèo, tiếp tục công việc từ tang tảng sáng cho đến đêm khuya không rời. Thiên Chúa ban phúc cho lòng tin tưởng và sự khó nhọc của chúng tôi: sau cùng Người đẫn chứng tôi tới một hòn đảo gọi là Champelau, chúng tôi cập bến. Chúng tôi hai lần tạ ơn Người vì đã cứu chúng tôi thoát một cơ nguy hiển nhiên, và vì chúng tồi còn lòng không chưa ăn sáng, thì ở đây chúng tôi đã điểm tâm. Ngày hôm sau là thứ năm tuần thánh, tôi cho dựng một bàn

58

thờ tươm tất hết sức có thể để dâng thánh lễ, tôi mời gọi những người theo tôi kính nhớ ngày thánh hôm nay. Sau đó chúng tôi tốd Hội An nơi từ ít lâu nay có mười chiếc tầu từ Macao tới, nhưng không có một linh mục nào: đây là điều làm cho tôi rất phiền muộn vì tôi chưa gặp ai, chưa gặp một linh mục nào từ hơn một năm nay. Đồng thời ở Đà Nang cố hai cha người Tây, tu sĩ dòng thánh Phan. Bão táp đã đánh giạt tầu vào đây, trong chiếc tầu này, các ngài dẫn từ Manila, thủ đô Phi, các nữ tu cùng dòng qua Macao lập một tu viện, nhưng vì có sự tranh chấp giữa hai vương quốc Bồ và CastiUe xảy ra vào giữa các dự đinh này, nên các tu sĩ quyết định ứở về Manila. Được tin tôi bị giam ở Qui Nhơn, thì các tu sĩ thường biên thơ yên ủi tôi và còn tỏ lòng bác ái cho tôi quà, mặc dầu các cha cũng bị phiên hà nhiều bề ở đây, như tối nói rõ trong các thư, tôi vắn tắt viết lại vài ba ở đây, để dùng làm bằng chứng về nhân đức và lòng sốt sắng của những bầy tôi cao cả của Thiên Chúa và cũng là bằng chứng vê sự giao hảo và tình đoàn kết tương hỗ gắn bó với chúng tồi. Thư thứ nhất đề ngày 16 tháng 2 năm 1645 như sau:

Kính cha Alexandre de Rhodes bị giam tù vì đức tin và ỉà đò đệ bất khuất của Đức Giêsu Kitô

K

hồng biết tôi phải cùng vui với cha về bao vinh dự cha được để truyền bá Phúc âm hay phải cùng khổ vổi xứ Đàng Trong vì mất nhiều Kitô hữu người nước này, thiếu chủ chăn, thiếu cha lành. Tôi tin tưởng vào Thiên Chúa, Người sẽ săn sóc công việc của Người và cha sẽ ra khỏi Xứ Đàng Trong, và Người sẽ không cho phép các cây non nớt bị thiệt hại và bị phá hủy. Tôi ao ước được tự do và không còn có bổn phận dẫn đưa

các nữ tu thánh thiện này để nhanh nhẹn chạy đến cha, quì dưới chân cha, để được nhìn thấy những bàn chân thánh in vết trên môi tôi. ỉt ra tôi cầu mong được một người tin cậy để có thể gửi biếu cha một chút quà còn lại trong cuộc hành trình của chúng tôi: ông Diego Henriquez de Boza là bầy tôi rất thân thiết của cha, ông rất vui lòng nhận công việc này. Tôi sợ không biết thư này CÓ lọt vào tay cha an toàn, vì tôi gửi qua đường rất chéo và không chắc. Khi ông thuyên trưởng Oratio Massa trở về đây thì tôi sẽ cố gắng hết sức tìm được người chắc chắn để lại gửi thư tới cha. Tôi nài xin cha cho tôi biết tôi có thể làm được gì cho cha. Nếu tấm áo rách nghèo nàn của thánh Phanchi có thể giúp được việc gì cho cha thì tôi sẽ không quản ngại bất cứ gì, theo tất cả tấm lòng quí mến của tôi. Nếu cha Antoine de Port bạn đồng hành của tôi có thể giúp cha được gì thì ngài cũng sẽ tận tình lẫnh nhận công việc mà tôi cũng hết lòng trìu mến, nếu tôi không bận nhiệm vụ bắt tôi phải trở về sớm hết sức. Sau cùng nếu cha cần sự gì thì tôi tha thiết xin cha cho tôi biết và nói rõ cho tôi tường. Ngày hôm nay 15 tháng 2 tôi đã nhận được thư cha với bánh lễ và hộp cha đã có nhã ý gửi cho tôi tò ngày mồng 1 tháng này. Thật là những của rất quí, tất cả chúng tôi thân tình cám ơn cha. Còn những tấm sắt dùng để làm bánh lễ mà cha cung có lòng tốt cho tôi mượn, thì ngày mai mới tới nơi, tôi không quên trả lại bằng đường lối an toàn. ở đây, không thiếu sự khốn khố:24 không kể những khốn khó chúng tôi đã chịu trên biển cả, thì hình như mổi ngày mỗi thêm lên trên đất liên, vì ngoài sự thiệt hại chính yếu những người trong tàu này chịu, họ còn mất hết những gì quí báu do ba Các Kitô hữu chung nhau sắm một cỗ áo quan rất có giá để liệm di vật thánh, rồi rất cung kính đưa đến nơi xa chừng hai dặm: họ yên lặng làm công việc này để đập tắt cơn thịnh nộ của

5

60

các thù địch đạo ta. Chúng tôi đưa xuống tàu của chúng tôi, cùng mọi* người nhà chúng tồi, nhất là với hai thày giảng có chức là đạo trưởng, chúng tôi đợi ở đây. Chính hai thày này lương dân chú ý đến bắt và cho sát hại, nhung vì không tìm thấy ở nhà chúng tôi, nên chân phước Anrê đã cướp được triều thiênẺ Đó là điều làm họ cay đắng và phiền muộn, và để lấy lại cơ hội đã mất họ khồng ngừng thôi thúc tôi để cho họ đến trình diện ở Quảng Nam, trước mặt các quan tòa đã cho người lòng bắt họ, nhưng tôi khuyên họ nên đợi cho cơn bão táp qua đi, tôi dẫn dụ cho họ biết nếu Thiên Chúa muốn cho họ được phúc tử đạo tlu se khong thieu, nhưng hiện nay ttó nên ứốn ừaiA va de giữ đè phòng và khôn ngoan. Tóm lại nếu họ không thận trọng mà tiến bước để tự hiến mình thì có thể là Thiên Chúa sẽ phạt họ về tội táo bạo liều lĩnh, nghĩa là Người từ chối không ban ơn cho họ có thể trở thành những vị tử đạo đích thực. Rồi sau đó tôi căn dặn các gia nhân, tất cả mưòỉ hai ngưòi, đều là những kẻ trai tráng khỏe mạnh, nên tránh cơn bão táp và luỉ vê quê quán hoặc cương quỵết đi theo bạn đông sự đã vạch đường lên trời bằng gương mẫu lòng kiên trì vinh hiển. Tất cả đều hớn hở lạ lùng, họ đồng thanh lớn tiếng tỏ ý muốn noi theo người và họ không còn ước muốn nông nàn nào khác là tỏ lòng kiên trung thờ phượng Thiên Chúa bằng hiến dâng tính mệnh vì Người. Chân phúc Anrê sinh quán trong tỉnh Phú Yên, thân mẫu là Gioanna, rất sùng đạo Ki tô, bà đã nhiều lần nài xin tôi nhận Anrê vào số các học trò của tôi. Anrê có một tinh thần sắc xảo, t

I

7

rất có sáng kiến và máng cỏ chúng tôi làm năm ngoái vào dịp lễ giáng sinh, đã được tất cả phủ xem thấy và ca ngợi, chính là tác phẩm của Anrê. Tuy thày khá gầy yếu về thân xác, nhưng lòng lần khám xét rất ngặt, họ đã phải chịu ngày mồng 3 tháng trước do lệnh của tòa án xứ này; chúng tôi tất cả đèu đã thấy giờ chết đến gần, và thực ra để dọn mình chết, chúng tôi đã xưng tội và rước lễ lân cuối cùng.

Thật vậy, chúng tôi khống coi thường những hãi sợ của chúng tôi, hoặc cho là vô cớ: vì chúng tôi thấy, do lệnh chúa, có những viên quan chính yếu cùng toán lính theo hầu và hai chiếc chiến thuyền đột nhập nhà các nữ tu và nhà cha Bề trên Cả của chúng tôi. Hơn nữa, viên tướng lãnh tối cao, theo họ gọi nhu thế, của nước này dẫn một toán lính tháp tùng tái, kẻ thì mang mã tấu lột trần, người thì vác súng hỏa mai vối mồi đã châm lửa, thế rồi chính những người Đàng Trong cũng đến cho chúng tôi hay là để chém đầu tất cả chúng tôi. Nhưng ĩân này chúng tôi đã thoát vê mặt sợ hãi. Hiện nay chúng tôi còn một mối lo sợ không nhỏ và làm cho lòng quặn đau. Chúa đã ra lệnh cho viên tướng lãnh cao cấp, phải dẫn về phủ với lính trận canh gác, các nữ tu của chúng tôi và cả chúng tôi nữa. Tôi viết thư rất lịch thiệp ứả lời là các nữ tu không thể đi được vì đau bịnh: nhưng người ta đòi ít ra là những ngưòi khoẻ mạnh phải đi. Viên quan Von Cai mà người ta nói là đã kết hôn với chính con gái hoặc con ngoại tình, đã sai một chuyên viên đến cho chúng tôi biết, chúng tôi không nên sợ: nhà chúa nghe người ta rất ca tụng các nữ tu thánh thiện, việc tu kín của họ, đức trung trinh, đạo hạnh, cách ăn mặc, chức vụ, nên ước ao được gặp đé tôn trọng họ, học hỏi về họ, về đạo và đẻ nghe Họ nói tại sao họ rất ít chuộng hoan lạc trần thế và khinh chê các sự đời này, không muốn có vàng, có bạc, có quần áo lụa lĩnh. Tuy tôi có thể dễ dàng từ chối cuộc hành trình phiền nhiễu này, vì lý do đường trường khó khăn cho các bà, nhưng tôi nghĩ Thiên Chúa theo những phán đoán thầm kín và khôn lường của Người, Người muốn thu được vinh quang từ sự tọc mạch và ao ước kì dị của ông chúa này, nên chúng tôi vui lòng nhận tất cả cái đau khổ và dâng lên Người để chuộc tội. Tôi đã đọc cho các nữ tu bức thư của cha, các bà rất buồn phiền về những thống khổ trong tù và dâng tất cả lời cầu nguyện lên Thiên Chúa để yên ủi cha, các bà cũng mong được cha cầu •

«

6

62

nguyện cho; tôi cũng ước được cha thương ban cho ơn đó, cả bạn đồng sự của tôi, chúng tôi xin Thiên Chúa gìn giữ bản thân rất đạo hạnh và có tinh thần tông đồ của cha. Tại Đà Nẵng ngày 16 tháng 2 năm 1645. Bầy tôi rất bất xứng của cha, Anh Antonio de Santa Mariaẻ

Trong một thư khác đề ngày 25 cùng tháng, cha cho tôi biết là các nữ tu đã được đưa tới phủ chúa và sự buồn phiền hiển nhiên của các bà là phải ra ngoài cõi tu kín, tuy kín đáo trong nhà một viên quan theo Kitô giáo, nơi đày cha đến dâng thánh lễ với rất nhiều giáo dân và với một nhiệt tình không thể tưởng tượng noi các Kitô hữu. Khi chúa ông và chúa bà đàm đạo với các nữ tu tốt lành, thì người ta hỏi về đạo Thiên Chúa, về chức vụ của các bà và các bà trả lời nói v'ê những sự rất thích hợp với các bậc phu nhân thánh thiện của Đức Giêsu Kitô. Nhung người thông dịch viên, hoặc là không muốn, hoặc là không thể diễn dịch cho tường về những sự quá cao cả. Chúa nhận thấy, nên đã định phạt về tội dốt nát hay ác ý của y, đem y ra đánh đòn, nhưng vì kính nể các nữ tu nên chúa không cho thi hành; y thật đáng phạt, bởi vì có một bà Kitô hữu tợ nguyện đi theo các nữ tu ra mắt chúa, vì có lệnh nghiêm ngặt, không có tu sĩ, không có người nào khác đi vối nữ tu. Nhưng kẻ đồng hành này đã lấy lòng viên quan xếp đặt công việc gặp mặt này để ứao cho y nhận nhiệm vụ mà bác bỏ hết các người khác. Chúa định vời các nữ tu một lần nữa7 nhưng với một thông dịch viên thồng thái han. Chính cha đó đã kể, trong phủ,

người ta không còn nghĩ tới cha, cũng chẳng còn vời cha tới hay nghe cha nữa, tuy cha đã nhất quyết tìm đủ cách để thưa với chúa trước khi nhổ neo từ bến Đà Nẵng. Hơn nữa, cha còn cả quyết rằng ồng Oratio Mas sa đã dược nghe từ chính miệng hoàng tử con của chúa nối rằng tôi sẽ được đi lại tự do, đức thân phụ ông biết rõ nơi tôi ở trong nước ngài và ngài không còn tỏ lòng thù ghét. Lá thư thứ ba tu sĩ thánh thiện này viết cho tôi đề ngày 14 tháng 3 ngài cho tôi biết chắc cha đã hài lòng nhận được lời phúc đáp của tôi và một di vật thánh tôi gửi biếu cha và cha thành kính cho xứng đáng cồng nghiệp của vị thánh, Cha sốt sắng mang trên đầu và cho cả các người đồng hành, nhất là cha cám ơn tôi về những tấm sắt làm bánh lễ mà tôi đã gởi tới cha một lần khác, cha lắp lại lời cha sẵn sằng nhận giúp đỡ tôi, thật là xứng vói lòng yêu thương rất đặc biệt cha dành cho tôi. Chúa cồng khai tỏ ra rất hài lòng vì đã được gặp các nữ tu thánh thiện của Thiên Chúa, ngài rất khen lòng trung trinh và khâm phục sự nghèo khó của họ. Ngài cũng nhờ dịp này mà khiển trách các nữ tu của đất nước ngài (vì ma quỷ giống như các chú khỉ thường giả tạo bắt chước tất cả những gì là đạo hạnh); có nhiều người nơi lương dân gọi là vãi; ngài che trách sự khoa trương phát hiện trên những trang sức hoa hoè hoa sói và trên những bộ mặt trát phấn nhiều màu, để cho người qua kẻ lại để mắt nhìn xem, khi họ đi qua phố phường. Sau khi ông chúa này đã thỏa mãn tính tọc mạch, thì đáng lỹ ra phải lợi dụng việc thấy những hình ảnh sống động đẹp đẽ mọi nhân đức, nhưng ông chẳng có tư tưởng nào khác, ngoài ý tưởng thường nảy nở trong một tinh thần ngoại đạo: tất cả đời Sống của các nữ tu chỉ là ảo ảnh, pháp thuật và khôn khéo ma quái có sức quyến rũ tâm hồn và khóe mắt người đời; thật là điều vu khống gò ép trong cửa hàng của Sa Tăng vào buổi phôi thai giáo hội: vì khi thấy các việc lành thánh và các phép lạ người Kitô hữu làm, thì người ta nghe lương dân thời xưa thốt ra những lời phạm thượng ở chốn công cộng: hãy đuổi những

6

64

tên phù thủy đi. Vậy cũng là phán đoán ghê rợn các dân này thường đưa ra, khi có sự gì mới và hiếm xảy ra nơi họ, nhưng sự việc vượt khả năng của họ.

Họ cũng có tâm tình như vậy về mấy trò chơi hay mấy việc tiêu khiển khác mà mấy người Âu Châu chúng ta làm trước mặt họ; ngay đến nhà chúa bỡ ngỡ vì sự khéo tay và nhanh nhẹn trong mấy trò mua vui dể giải trí, ngài nghĩ ngội và sợ hãi, quay về phía ông chú là em của đức thân phụ, ngài khiển trách ông VI ồng đã học được nhiêu điều, vì ông để cho các người của chúng tôi đi lại quen thân với ông, bởi vì thân mẫu ông theo Kitô giáo. Vậy cái sợ bóng sợ vía này của chúa, ngài không ưa gì đạo ta, đã ăn sâu trong tâm khảm hoàng tử đến nỗi đé cho người ta không còn nghi ngờ ống kiêng nể thì ông không quản bắt đàu hành hạ chính thân mẫu ông, do chính ông hay các con ông.25 Bước đầu cuộc dự định giận dữ này là cho triệt hạ nhà thờ nhỏ bà vẫn quen dùng để đọc kinh cầu nguyện cùng gia nhân và các Kitô hữu ở bên ngoài. Bà Thái Phi nhân đức này lúc đó đã thọ thất tuần, rất có lương tri và lòng trung thực còn cao quí hơn nữa, bà cảm thấy tê tái buồn phiền vì tội phạm thượng này đến nỗi bà bỏ nhà con bà và trong tám ngày tròn bà than van khóc lóc liên tục như thể chính bà đã cộng tác vào sự phạm đến nhà Thiên Chúa, bởi vì bà đã không ngãn cản nổi. Nhưng khi được hỏi về vấn đề này thì tôi đã yên ỉỉỉễ bà cho bà vững tâm, tội đã phạm ngoài ý muốn của bà, hơn nữa bà không sao chống đối nổi, như vậy trước mặt Thiên Chúa bà hoàn toàn vô tội, vả lại bà cứ tiếp tục làm các việc đạo đức sốt sáng như thường lệ. Tôi cũng cho bà biết Đền thờ Thiên Chúa ưa hơn cả là linh hồn thánh thiện và nếu các Kitô hữu từ nay

trở đi không thé hội nhau trong nhà nguyện của bà thì có thể hội nhau cầu nguyện trong một noi khác, để cho các việc đạo không bị gián đoạn và rồi bị quên lãng đi. Từ tất cả những việc này thì thấy rõ, việc các nữ tu thánh thiện tới phủ chúa đã đem lại một niềm an ủi rất đặc biệt cho các »

1••••

Kitô hữu; từ khắp các ngả, họ tuôn đến xem. Thiên Chúa để cho vụ này trở thành hạt giống nảy sinh các công việc và các phiền lụy cho bà Thái Phi26 khôn ngoan, bà dì của chúa. Bà khá sầu muộn vì không thể tự do ra đón tiếp tỏ tình thân thương đối với các nữ tu Thiên ChúaỀ Bà đành chịu sự thua thiệt để khỏi làm rầu lòng con bằ và cả chính nhà chúa nữa: họ sẽ có thể nhấn cơ hội này mà thêm tàn bạo hành hạ bắt bớ đạo ta. Thế nhưng bà cũng không ngồi yên được, bà hết sức kín đáo, cho người chở một thuyền nhỏ đến thăm, ít ra là một lần, các nữ tu, nhìn thấy tận mắt tấm áo dòng của các bà và được thỏa thuê đàm đạo về sự đạo vói các bà. •



A

»



Câu truyện của các nữ tu đã làm cho bà đau đớn khôn tả và bà rất mực quí mến đến nỗi hình như bà không sao rời bỏ các nữ tu được. Để cho nhẹ bớt những tâm tình nhớ thương sau lúc biệt li vội vàng thì bà muốn được một biểu hiện của tình kết hợp các tâm hồn, bà ngỏ lời xin các nữ tu một bộ áo dòng để cho khi bà nhắm mắt lìa đời bà được khâm liệm trong tấm áo đó. Các nữ tu vui lòng nhận tặng bà với tất cả bằng chứng vê sự thân yêu tương hỗ, rồi các bà từ biệt nhau sau những cái hôn thánh thiện và tất cả những sự trìu mến của tình bác ái toàn vẹn, rồi ngay sau đó các nữ tu bỏ vê hải cảng Đà Nẵng. Thế nhưng khi được biết hai cha dòng thánh Phan chi sắp sửa ữáy đi thì tôi vội vã cho mau để tới gặp và được thấy các ngài. Sau cùng, tôi đã tới vào ngày thứ sáu tuần thánh. Tôi được gặp ở ữong nhà các cha, đang sửa soạn ngày mai xuống tàu: chúng tôi chi có một đêm để yên ủi nhau, và tôi được hoàn toàn toại nguyện, tôi rất mực sốt sắng nhờ những gương sáng nhân

6

66

đức các ngài và những ao ước nhiệt thành tự nguyện cứu giúp Giáo hội này. Sau khi các nữ tu sĩ trẩy đi thì tôi trở vè Quảng Nam, ở nhà bà trấn thủ tỉnh này,27 nod đây hết sức kín đáo, tôi làm các phép bí tích cho giáo dân, rửa tội cho lương dân. Tôi cũng làm các việc phục dịch này cho những người Nhật trú ngụ ở xứ này, cho các người Bồ nữa. Tôi cũng phái thày giảng Inhaxu đi thăm các Kitô hữu trong phủ, họ có chút hãi sợ vì những vũ lực ông chú của chúa đã thi hành chống đối bà thán mẫu. Nhưng sau tôi thấy thuận lợi hơn nếu chính tôi thân hành đi, tuy phải rất thận trọng dè giữ và kín đáo. Các cửa tư dinh của bà Vương thái phi, bà dì của chúa, hình như được canh gác khá ngặt, nên tôi không dám thân hành đến thãm, tồi phái một người khác thay tồi đến chào bà: bà rất sùng đạo, nên không thể không đến nhà gặp tôi vào ban đêm, xin tôi giải tội cho bà cùng hết các gia nhân phục dịch bà, tôi cũng dâng thánh lễ và cho cả nhà rước lễ, sau đó bà lui về tư dinh ngay đêm đó mà không ai hay biết. Một trường hợp lạ lùng đã xảy ra cho tôi ở nơi này, khi tôi đang ở trong nhà, giải tội cho các Kitô hữu, trong số đó có mấy binh sĩ thuộc đội cận vệ thì chứa cùng đoàn tùy tùng tới tiêu khiển trong một khu vườn thuộc về nhà này. Không may lửa bén sang nhà kế cận, thế là chính chúa bước ra phố truyền cho người ta cẩn thận và mau chóng giập tắt ngọn lửa. Tôi cảm thấy rất áy náy và lúng túng vì sợ nếu ngọn lửa ăn sang nhà tôi đang ở thì tôi đành phải ra khỏi nhà và dù muốn dù không, phải ra mắt nhà chúa. Nhung các Kitô hữu còn khổ hơn tôi, họ thêm lòi cầu nguyện xin cho tai họa chuyển hướng, cho gió đưa ngọn lửa sang phía bên kia. Thế là tôi được ơn và cảm tạ Thiên Chúa đã bảo vệ tốiẻ Rồi tôi tiếp tục thừa hành chức vụ an toàn trong mấy ngày, sinh ích lợi lứn lao cho các Kitô hữu và làm hài lòng mấy tân tòng trong phủ tôi đã rửa tội cho.

Sau đó tôi phải ngược lên biên giới cuối cùng của xứ Đàng Ngoài để phục vụ giáo dân mà tôi chưa tới thãm từ một năm nay. Tôi trẩy đi ba ngày trước lễ Hiện Xuống. Được thuận buồn xuôi gió, chúng tôi đã đi được nửa đường thì gặp một lính canh khác thường. Là vì có tin đồn thất thiệt về cái chết của chúa Đàng Ngoài và người kế vị lên ngôi cũng trong xứ nàyế Thế là ở đây người ta chuẩn bị binh đao vì sợ tin này làm nguyên nhân cắt đức giao thiệp giữa hai nước. Tên lính gác này bắt giam chúng tôi và báo tin về phủ ngay lập tức. Ban đầu chúng tôi bị đối xử khá thậm tệ, nhưng khi viên tưứng lãnh thấy cách ăn ở và những ý định của chúng tôi chỉ là đi công bố đạo Thiên Chúa, thì chính ông mời tôi về nhà ông, kính trọng và rất lịch thiệp, chính tay ông sửa soạn hết những gì cần thiết cho việc thừa hành các chức vụ của chúng tôi, ông còn giúp dựng một bàn thờ, để dâng thánh lễ và khi thấy ảnh Chúa Cứu thế thì ông liền quì xuống sát đất, thờ lạy rất mực cung kính. Được tin tôi bị bắt thì các Kitô hữu rất vội vã lấy năm chiếc thuyền, đàn ông, đàn bà và trẻ con, không hãi sợ gL đến cứu giúp tôi: nhưng vì tôi khồng cần đến, thì tôi lại làm việc phục vụ rất có ích cho họ, nghĩa là làm các phép bí tích. Tôi đã đưa về cho giáo hội 80 người bằng phép thánh tẩy .-Những tin đưa về phủ, nơi chúng tôi bị gọi về, bắt chúng tôi phải bỏ địa phương này sớm hơn điều chúng tôi mong muốn, vì có những cơ hội xung túc để sinh hoa trái ở đây. Khi từ biệt viên tướng lãnh, thì ông tỏ ra rất muốn tin theo đạo và ông xin tôi nguyện cầu Thiên Chúa cho được hậu quả là phá tan hết những cản trở ngãn chặn ồng trên con đường tiến triển. Viên chức được lệnh dẫn chúng tôi, cũng xin tôi như vậy. Trên đường, chúng tồi gặp mấy giáo dân ra đón chúng tôi, tò tứ phía. Viên chức này cho phép tôi đến nhà một người có thế giá ngã bệnh nặng. Tôi giải tội cho ông, dâng thánh lễ cho ông và cho rước lễễ Sau cùng chúng tôi tới phủ vào chiều tối:

6

68

hướng dẫn viên bằng lòng để tôi suốt đêm đó đàm đạo với các Kitô hữu. Tôi làm các phép bí tích, dâng thánh lễ. Tôi xin họ rất đặc biệt cầu nguyện cho sự thành công của việc tôi tối đây, để cho mọi sự được kết quả mỹ mãn, làm vinh danh Thiên Chúa, tôi khẩn nài họ ăn chay vì lỹ đó, trong ba ngày trước lễ Thánh Thể. Chúng tôi bị điệu đến trước mặt viên quan đặc ủy ngoại kĩều, ông bắt giam chúng tôi, tịch thu hết đồ đạc nghèo nàn của chúng tôi và chuyển về phủ. Ông chúa này có tính tham lam vô độ, nên đã lấy hết, không tha vật gì, kể ca những thứ chúng tôi C .1 để sinh sống: còn về những đồ thuộc về sự phụng sự, tôi muốn nói, như chén lễ, bình thánh, các ảnh tượng và các đồ lễ, thì ông truyền trao trả hết trong tay chúng tôi. ống không có gan sờ mó vào một vật gì vì biết đó là những đồ được hiến dâng vào việc phụng ềthừắTOta Chúa. Tất cả đồng sự của tôi, có muồi người, đêu bị gông hay cây giá như thường lệ. Tôi mong cũng được phúc đó, nhung người ta không cho phép tôi, mặc đâu tôi nàí nẵng xin. Có một em bé 13 tuổi tên là Inhaxu, đã tỏ ra can tràng vượt sức tuổi em: lính đến bắt em mang một gông rất nặng đến nỗi em hầu như quị xuống. Viên quan đứng đầu cho thi hành động lòng thương thì đã khiển trách những tên lính vì sự lộ liễu này và truyền tháo cởi ra, nhưng em bé can đảm không muốn để cho người ta tháo chiếc gông ra và nói với nét mặt cương nghị, không phải là xin chiếu cố mà là không được tháo, không nên thay, vì tôi mang được lắm. Đứa trẻ can tràng đã xứng đáng chứng minh bằng hiệu quả lời Chúa Cứu Thế: ách Ta dịu và gánh Ta êm. Các tù nhân của chúng ta vui mừng vì được làm các việc hãm mình mà bọn lính và kẻ ngoại cung cấp cho. Tôi làm hết sức để xin chúng giảm bớt nhưng chẳng được việc gì, nhất là chúng đòi ãn tiền và tôi không có để cho chúng, chính tôi cũng đã bị tước đoạt hết. Các Kitô hữu đã giúp đỡ chúng tôi trong sự

cần dùng. Trong số đó phải chú trọng tới lòng bác ái của một người quí phái rất được trọng kính vì rất thông thái: ông rất ao uớc tự hiến phụng sự Thiên Chúa và truyền bá phúc âm. Tôi chưa nhận ôrig trong một thòi gian: ông liền nhờ dịp này làm bằng chứng về ý ngay lành của ông. Thế là không sợ xấu hổ, ông bỏ hết tự ái và mọi trọng kính về giá trị của ông, ông ăn ở như đầy tớ mọi người, làm bếp, dọn ăn cho các tù nhân và không ngừng phàn nàn là không được nhận vào số các tù nhân. Thày giảng Inhaxu mang xiềng xích đã tỏ ra như thánh Phaolô đã nói: lời Thiên Chúa không bị xiềng xích, bed vì thày không ngừng giảng dạy những sự cao cả của đạo ta cho lương dân, họ từng đoàn từng toán lũ lượt tới nghe thày ở trong ngục, và thày đã chinh phục được một ít, sau này đã được tôi rửa tội. Thế nhưng vụ chứng tôi đã được xét xử trước mặt chứa, sau cùng ngài lên án tử hình phạt tôi và hình phạt đặc biệt là tôi bị chém đầu, nhưng khốn thay! tôi chưa xứng đáng được Thiên Chúa ban cho phúc trọng này, tội tôi đã làm cho tôi thành kẻ bất xứng. Sự cản trở không cho thi hành bản án thì đã xay ra như sau. Tuy rằng cho tói nay chưa có ai trong phủ dù có thế giá đến đâu đi nữa cũng không dám góp lời, khi chúa nổi giận công bố những bản án quá vội vã; mọi người đều sợ cớn thịnh nộ vượt hết những sự thái qua, khi có người phản đối dù là đôi chút.

6

Nhưng Thiên Chúa đã ban phép cho viên quan tôi đã trọ nhà năm ngoái và tôi cũng đã rửa tội cho bà vợ cùng gia quỵến, khi nghe bản án chúa ban ra thì ông đã đứng lên và quì phục lạy như thường lệ, rồi lên tiếng như sau. Sao chúa có thể truyền cho giết ông cha, ông rảo khắp đất nước ta, chi làm điều lành và dạy những sự thánh, lý do nào đã phát động lòng chúa ra quyết định không hợp pháp lý cũng như làm nhơ thanh gươm chúa bằng máu kẻ vô tội, •

Chúa đột ngột thay đổi hoàn toàn và trở nên dịu dàng vì lời khiển trách này, ngài đáp: ta đã truyền xử tử mấy viên quan và mấy người khác có thế giá trong nước ta và ngay cả em ruột của ta, và cho tới nay không ai cả gan can gián ta; được rồi, ta bằng lòng, ta cho y sống, nhưng y phải sớm bỏ nước ta ngay. Hãy dẫn y vào Hội An nơi có người Bồ, để cho y muốn đi đâu thì đi và y hãy trẩy đi ngay bởi vì ta không rõ y dùng bùa ngải nào để quyến ru thần dân ta, mọi người theo y như y muốn và nhắm mắt hiến mình cho y. Ta không muốn để y ở lại trong đất nước ta. Đêm hôm đó, chúng tôi tất cả, các đồng sự của tôi và tôi đều chịu các phép bí tích để phòng sự có thể xảy ra, nhưng vào ban sáng thi tôi được trao cho một viên tướng lãnh đẫn tôi đi Hội An. Thật tôi cho như một uy hiếp rất chua xót khi thấy mình bị tách rời khỏi cánh tay các tù nhân quí mến của tôi. Cuối cùng đành phải nuốt chén cay đắng.Quân lính nắm cổ tay tôi mà lôi qua các phố phường để đem tôi xuống thuyền cho chóng. Thấy tôi bị điệu đi như vậy thì các Kitô hữu khóc lóc thảm thiết, còn tôi thì từ biệt họ và pha nước mắt tôi vào giọt lệ họ, tôi nhắn nhủ họ kiên trì giữ đạo thánh và săn sóc các tù nhAn thân thương của chúng tôi. Khi tôi đã xuống thuyền rồi thì có hai Kitô hữu chạy theo lổl để đưa một tin hầu như đích xác là chúa đã truyền cho Hgiffti IM dọc đường ném tôi xuống biển. Tin mới này khổng lồm t*lio |fti sửng sốt, nhưng nó được dùng làm sự yẽn ủi thay cho

sự phiền muộn, vì tôi cảm thấy không được số phận hạnh phúc mà tôi thường ao ước trong tất cả những khó nhọc phải chịu trong những khu truyền giáo, tôi hy vọng trên biển khơi, tôi sẽ được nhận cành lá tử đạo từ lâu mong ước, nhưng nếu ở trên đất thì không bao giờ kiếm ra. Thế là tôi thấy mình tách khỏi các bạn đồng sự và sự giúp đỡ của mọi người, tôi ôm tha thiết hơn bao giờ hết, người mà tôi luôn luôn quí mến, được công nhận như hưáag dẫn viên rất khôn ngoan và bạn đồng hành rất thân thương trong hết các cuộc hành trình khá phiêu lưu mạo hiểm của tôi, tôi muốn nói cây giá rất thánh mà cha Bề trên đã ban cho tôi từ 27 năm nay khi tôi bỏ Rôma trẩy đi* Đêm ấy tôi thức để đàm đạo với bạn đồng hành rất thần linh, tôi hôn nghìn lân những vết thương thánh và múc trong những bể Chúa Cứu Thế những giòng nước yên ủi rất dịu dàng mà tôi coi như những báo hiệu tận số hồng phúc của tôi; nhung sau khi đã thức đêm giữa trông đọi thân yêu đó thì ngày khốn nạn đã đến với tôi, hỡi ôi! tôi vẫn ở trong một tình trạng cũ, nhận ra cách phũ phàng những luyến tiếc cay đắng là mình đâu có được hạnh phúc khôn tả của ơn tử đạo, phúc tử đạo: “Không phải của kẻ muốn, cũng không phải của kẻ chạy theo, nhưng là của lòng từ bi lân tuất Thiên Chúa.” Rồi chúng tôi đã lọt vào cửa Hội An, nơi đây tôi được trao trong tay viên lính gác của người Nhật như tù nhân Nhà Nước cho tới khi xuống tàu. Viên cai này sau đó lại trao cho một người Nhật khác là Kitô hữu canh giữ tôi tên là Phanxicô. Ông này đưa tôi về nhà và cả bà vợ đêu tỏ lòng quí mến tôi, cho phép tôi thừa hành các chức vụ thánh vào ban đêm, chứ không ban ngày vì đã có lệnh nghiêm khắc cấm ông đã nhận được. Vì thế suốt thời gian 22 ngày tôi bị giam giữ, tôi đã làm các phép bí tích giải tội và cho rước lễ một số đông Kitô hữu từ bốn phương kéo đến, tôi cũng rửa tội cho các lương dân; ở chính nơi này tôi cũng nhận được các tin tức liên tục về các tù nhân của chúng %

7

72

tôi và mấy lá thư của thày giảng Inhaxuẻ Tôi nhờ người đem vào ngục cho thày tràng hạt và ảnh đeo rất nhiều theo như thày muốn để thày phân phát trong các buổi học giáo lý hàng ngày mà thày không bỏ, ngay trong khi bị giam tù, tồi cũng viện trợ những sự cần dùng trong sự có thể của tôiằ ở đây tôi cũng được yên ủi rất nhiều khi được biết những chiến công hiển hách về lòng quả cảm ở khắp phủ theo Kitô giáo do hai giáo dân của ta chiếm được. Người thứ nhất là người anh của thày giảng Inhaxu tên là Phêrô, rất sốt sắng làm các việc thiện và cũng được dùng để dạy giáo lý khi cần. Ong không thể tự nguyện hy sirửi suốt đời phụng sự Thiên Chúa được bởi VI đã có gia đình. Có một sắc lệnh đã công bố từ nơi nhà chúa ở phủ Thuận Hóa, ban đêm ai nấy đều phải ở yên trong khu xóm mình; người Kitô hữu này cùng bạn đồng hành vì không biết sắc lệnh và cũng vì chân ướt chân ráo tối đây, nên đã đến ở nhà một bà Kitô hữu đã hội nhau ở đây vào chập tối ở đây để đọc kinh và hát ca ngợi khen Thiên Chúa rất sốt sắng. Có người hàng xóm là lương dân rất ghét đạo, y cầm võ khí xông vào nhà bắt giam hai người Kitô hữu vì ở khu xóm khác, rồi ngay giờ đó điệu tới viên quan gần nhất. Vào ban sáng, ông này cho đưa tới trước mặt chúa: trước mặt chúa, họ đã mạnh bạo xưng mình là Kitô hữu; chúa chỉ nghe sơ qua, phạt đánh một trăm trượng trên vai với một chiếc gậy lớn. Bản án được thi hành ngay lập tức, người ta đã đánh Tê Vọng hơn tám chục, và Phêrô những năm trăm, cả hai đều bị nhừ tử vì bị đánh đòn rất tàn ác, đến nỗi các Kitô hữu cho như sắp chết. Người ta khiêng về nhà và sau khi được nghỉ ngơi một ngày thì Phêrô đứng dậy khỏe khoắn và lực lưỡng ngay ngày hổm sau, không còn thương tích nào, không phải là không có hành động của Thiên Chúa. Tựu trung ông lại nóng lòng sốt ruột được chịu hơn nữa vì đạo ta. Ngày giờ khởi hành đã điểm, sau khi từ biệt các Kitô hữu, vì quí mến tôi, tất cả đều muốn theo tôi và tôi đã khuyên nhủ

họ kiên trì giữ các giới răn Thiên Chúa, cho họ hi vọng Thiên Chúa nhân từ sẽ săn sóc bảo vệ họ và phân phát dồi dào hết mọi viên ượ cần thiết cho được kiên trì bất khuất. Tôi bị đưa xuống chiếc thuyền ở đây người ta gọi là thuyền canh gác, rồi một viên chức trong phủ ra lệnh cho thuyền trưởng đưa tôi về Macao và không được trở lại, nếu không thì sẽ bị xử tử, cũng không được để tôi ở một nơi nào trên đất liền, hoặc ở bất cứ cửa biển nào của xứ Đang Trong, nêu không cũng sẽbian như thế Chúng tôi lên buồm từ hải cảng Hội An ngày mồng 9 tháng 728 và lòng tôi luôn iuôn quyến luyến đất nước thân yêu này, trái tim tôi hình như muốn thoát ra khỏi lồng ngưc để trở về kết hiệp với các bạn đồng sự nghĩa thiết hiện nay đang ở trong ngục và với tất cả các Kitô hữu tốt lành của tôi. Thường thường quãng đi biển này chỉ mất 4 hay 5 ngày, chúng tôi luôn luôn chịu cực nhọc và hẫi sợ; trong cơn cuối cùng dữ dội nhất, chúng tôi hầu như gần bị chìm đắm. Trong cơn nguy hiểm này tôi cầu cứu sự hộ phù chân phúc tử đạo xứ Đàng Trong mà thi hài thánh đã được đưa về Macao, còn thủ cấp thì thì tôi vẫn đành riêng cho tôi, tôi vẫn luôn luôn từ thời đó đem theo tôi và hằng để áp tải tôi, yên ủi tôi trong hết mọi cồng việc tôi làm. Trước di vật thánh, chúng tôi khóc lóc đọc kinh cầu nguyện xác thánh, tức thì chúng tôi cảm thấy có ơn Trên ban xuống. Gió liền xoay chiều đổi hướng rất thuận, không còn bỏ rơi chúng tôi, cho tới lúc chúng tôi may mắn vào hải khẩu Macao. Mọi người đêu cho thành công may mắn này là nhờ sự khẩn cầu của vị tử đạo vinh quang, đặc biệt là khi chúng tôi tói thì được tin có các tàu khác đã bị chìm dưới làn sóng của ừận vũ bão đó. Chúng tôi cảm tạ Thiên Chúa đã dẫn dắt chúng tôi bằng an lành lặn tới bến, nhờ vào những lời kinh của chân phúc tử đạo; chúng tôi hy vọng vào lời cầu nguyện của người để Thiên Chúa ban bình an cho giáo hội xứ này và cung cấp cho nhiều

7

74

thợ tông đồ đến làm việc và truyền bá đức tin thánh. Đó là điều chúng tôi cũng trông đợi ở tay rộng lượng của cha với phép lành thánh tùy lượng cha ban phát cho chúng tôi và cho toàn cõi Kitô giáo vừa phục dịch vừa phiền muộn. Thưa cha rất khả kính Kẻ trung thần và hiếu tử của cha trong Thiên Chúa Alexandre de Rhodes Từ Macao ngày 16 tháng 10 năm 1645

Chú thích Phê phán xã hội thời đó, xã hội ngoại giáo với ba lỗi lầm chính: thờ ngẫu tượng, tham của và dâm đãng. 2 Mến Chúa và yêu người đố là lề luật Phức âm, cả hai phải đi đôi, như thế không thể nói là tha hóa, bởi vì gần Thiên Chúa đé gần người hơn. 3 Đây là Tân thứ năm, tức ĩân cuối cùng De Rhodes tới Đàng Trong. 4 Đó là Nguyễn Phúc Vinh. Thực lục tiền biên chép: “Phó tướng Nguyễn Phúc Vinh (con trưởng Mạc Cảnh Huống láy công chúa Ngọc Liên, cho theo quốc tính, sau đổi làm - hệ tính - Nguyên Hữu) đi đánh dẹp yên và lập dinh Trân biên (khi mới mở mang những nơi đầu địa giới đều gọi là Trta biên). Vì có công ấy, đặc biệt cho dùng ấn son” (IV, 56). Như vậy bà phu nhân là công chúa Ngọc Liên theo Kitô giáo. Trong bản tường trình này có đề cập khá nhiều vê Bà. 5 Tức Bà Minh Đức Vương thái phi, thứ phi của Nguyễn Hoàng, thân mẫu hoàng tử Khê và là bà dì Nguyễn Phúc Lan (chúa Thượng). Trong bản tường tình này có đê cập khá nhièu về Bà. 6 Thực lục tiền biên chép: “Quân la lấy được châu Bắc Bố Chánh... Trịnh Tráng lại phục thư nói về tình nghĩa lâu đời và in trả lại đất Bắc Bố Chánh. Chúa ra lệnh trả cho...” (rv,71). Đó là năm 1640. 7 Bà Minh Đức Vương thái phi và hoàng tử Khê 1

Như vậy bà Minh Đức Vương thái phi sinh vào khoảng năm 1570/1572, còn Nguyễn Hoàng theo Thực lục tiền biên thì mất vào năm 1613 thọ 89 tuổi, tức ngài sinh năm 1525. Giữa Nguyễn Hoàng và Bà Minh Đức có sự chênh lệch về tuổi chừng 43 tuổi. Đĩêu này không có gì lạ vì nhà chúa có nhiều cung phi trẻ tuổi. Các hoàng tử con Nguyễn Hoàng là : Hà, Hán. Thành, Diễn, Hải, Nguyên phúc Nguyên, Hợp, Thạch, Khê.” Bấy giờ hoàng tử cả là Hà, thứ hai là Hán, thứ ba là Thành, thứ tư là Diễn đêu mất trước. Hoàng tử thứ năm là Hải làm con tin ở Bắc” (Tien biên tr. 4Ố). Tôn thất Hải mất năm 1616 tại Đông đô (Tb. tr. 47 ), Hiệp và Thạch mưu làm loạn bị giam ngục và chet năm 1Ố20 (Tb. tr. 49-50 ). 9 Có ý nói không chịu chối đạo. 10 Thực lục tièn biên chép: “Canh ngọ năm thứ 17 (1630) Đào Duy Từ bàn về việc đắp lũy Trường Dục hơn một tháng thì xong “ (tr. 57). Năm 1631 “Lũy cao 1 trượng 5 thước, ngoài đóng gỗ lim trong đắp đất, làm 5 bục, voi ngựa đi được, dực núi men khe, dài hơn 3.000 tr, mỗi tr. đặt một khẩu súng q\ X sơn, cách 3 hoặc 3 tr lập một pháo đài đ^t 1 khắu súnữ nòng lớn. Thuốc đạn chứa như núi. Mấy tháng đắp xong iũy thành một nưi ngăn chặn chia hẳn hai miền Nam Bắc. Lại đặt xích sắt chắn ngang các cửa biển Nhật Lệ và Minh Linh - tức Cửa Tùng” (Tb. tr. 61) 11 Bắc Bố Chính thuộc Bắc Hà (Đàng Ngoài) Nam Bố Chính thuộc Nam Hà (Đàng Trong). 12 Trấn thủ Phú Yên Nguyễn Phức Vinh và phu nhân công chúa Ngọc Liên nói ở tiến. Có thể ông đồi về Quảng Nam không phải để là trấh thủ mà làm cố vấn cho ừấn thủ Quảng Nam? 13 Lời nói rất thành thực, rất xúc động. 14 Tức cựu trấh thủ Phú Yên và phu nhân nói ở trên. 15 Bản tiếng Ý “Relatione della morte di Andrea catechista... Roma, 1652” và bản tiếng Pháp "La glorieuse mort à'André catéchỉste... Paris 1653". 16 Gaspar d’Amaral (1592- 1645 ) tới Macao 1623, đến Đàng Ngoài năm 1629, vê Macao 1630, năm 1631 lại tới Đàng Ngoài cho đến năm 1638 thì v'ê Macao. Bị đắm tàu và mất ngày 23/12/1645, soạn hai tài liệu viết tay: Tường trình v'ê nước Annam, 1632 và Tường thuật vè các thầy giảng của 8

7

giáo đoàn Đàng Ngoài viếl tại Kẻ Chợ nám 1637. (Coi Đỗ Quang Chính, sđ tr.54-67). 17 Phạm Đình Khiêm, Người chứng thứ nhất, Anrê Phú Yên tử đạo, Sàigon 1959. 18 Coi số 4. 19 Lễ giáng sinh năm 1644. Coi: lễ giáng sinh năm 1Ố43 ở nhà bà Minh Đức Vương thái phi, tr. 6. 20 Giáo sĩ bỏ Rôma qua Pháp để đi Lísboa năm 1618. 21 Đề Lĩnh: viên quan cao cấp xét xử các vụ bạo động như trộm cướp, giết người. 22 De Rhodes sinh ngày 15 tháng 3 năm 1593 ở Avignon. 23 Vờa tin tưởng vừa bắt tay vào chèo lái. 24 Những chi tiết này không thấy nói trong Hành trình và Truyền Giáo. 25 Hoàng tử Khê trung thành phục vụ chúa Nguyễn phúc Nguyên, rồi tới Nguyễn phúc Lan> ông hi sinh chữ hiếu để duy trì chữ trung. Ông mất nâm 1646. 26 Bà Minh Đức Vưang thái phi. 27 Nhà bà cựu trấ thủ Phú Yên thì có lẽ đúng hơn. 28 Trong Hành Trình và Truyền Giáo, lại ghi là ngày 3 tháng 7.

ĐÀNG TRONG DƯỚI THỜI NGUYỄN PHÚC LAN (1635 - 1648 )

N

ăm 1635 Nguyễn Phúc Nguyên mất. Trong khi nhắm mắt, ông cho triệu thế tử và hoàng tử Khê vào để nhận những lòi trối trãngệ Người ta có cảm tưởng như nhà chúa chủ ý nhắn nhủ Khê hơn là thế tử. Chúa bảo Khê rằng: “Ta vâng nối nghiệp trước, chí ta cốt trên giúp nhà vua, dưới cứu sinh dân. Nay thế tử chưa lịch duyệt, mọi việc lớn quân quốc ta ủy hết cho hiền đệ quyết định. Khê cúi đầu khóc nói: “ Thần dám đâu không đem hết sức ngựa hèn để lo báo đáp.” Chúa lại nói: Khắc Liệt là tiểu nhân phản bội, trước kia ta cùng nó ước hẹn, cũng là kế

chiêu nạp tạm thời. Các người chớ nên quá tin nó mà để lo về sau. Thế tử và Khê lạy khóc vâng mệnh. Hôm ấy chúa băng, ở ngôi 22 năm, thọ 73 tuổi” (Thực Lục, Tb. 2, Sd tr. 66 . Thực ra từ năm 1626, Sãi vương đã trao mọi việc cho Khê đinh đoạt, Còn về thế tử là Nguyễn Phúc Lan, lúc này đã 35 tuổi, sao có thể còn chưa đủ lịch duyệt. Hẳn cũng có một mối âu lo gì đó của nhà chúa hấp hối. Riêng vê Nguyễn Khắc Liệt, người ta được biết ông này đã phản bội Trịnh Tráng đem quân về hàng Sãi Vương, tuy vậy Sãi Vương chưa tin. Nguyễn Phúc Lan lên nối vị cha, người ta còn gọi là chúa Thượng hay Thượng Vương. Từ năm hoàng tử Kỳ mất (1631), thì ồng được làm thế tử, còn Ánh là con thứ ba, được giữ chức trấn thủ Quảng Nam thay Kỳ. Lại một cảnh huynh đệ tương tàn, gần như vụ đã xảy ra giữa Sãi Vương và hai ngưòti bào đệ Hiệp và Trạch nổi loạn. Thực lục ghi rành mạch cuộc khỏi binh này với mục đích cướp ngôi thế tử. Nguyên Phúc Lan cho vời Tôn Thất Khê vào bàn bạc và khóc lóc. Khê nhất quyết không thể để kẻ phản loạn được yên thân. Thế là nhà chúa sai tướng tá đi trừng trị, bắt được Ánh đem vồ, cho giết đi. Rồi Thượng Vương đặt Bùi Hùng Lương làm trưởng dinh trấn thủ Quảng Nam. Ông này, theo phỏng đoán của chúng tôi, từ năm 1Ố35 cho tói ít ra những năm cuối đời Nguyễn Phúc Lan, đã tỏ ra ghét Kitô giáo và tìm cách làm hại, không như ông Nghè hoàng tử Kỳ vào những năm trước 1631. Còn Hoàng tử Khê vì có công lớn nên được nhà chúa thưởng cho một cỗ kiệu sơn son then và một quả ấn đồng (Thực lục Tb. 3, Sá. tr. 70). Nhà chúa cũng dời dinh về Kim Long. Tnrđc đây Nguyễn

7

78

phúc Nguyên từ dinh Cát dời về Phúc Yên. Kim Long là chỗ núi sông đẹp tốt, nam có sông Hương chảy ra cửa Thuận An, đông có con sông nhỏ, sông Kẻ Vạn, tây bắc cổ con sông Bạch Yến. Sông Kẻ Vạn nằm sát nội thành Huế ngày nay, và về phía tây không xa là chùa Thiên Mụ. Chúa cho xây điện đài và dọn về Kim Long thuộc huyện Hương Trà (Thực lục, Tb. 3„Sd. tr. Ệ 70). Tới đây mới lộ liễu hơn, một nhân vật sẽ có ảnh hưởng tới bước tiến của Kitô giáo, đó là bà Tống thị. Vào nãm 1632, sử cho biết bà này là vợ mọn của hoàng tử Kỳ, thân phụ bà là Tống Phước Đông. Tống thị sinh được 3 người con trai. Thông rất lấy làm mừng cho rằng sau này mình sẽ được danh vọng cao. Không may, Kỳ mất, thế là Thông thất vọng, ông bèn dẫn gia quyến lẻn ra cửa Eo, nay là cửa Thuận An, trốn về vối Trịnh Tráng (Thực lục Tb q. 2, Sd tr. 64 ). Chỉ Tống thị ở lại: “Kỷ nhã của năm thứ 4 (1639) mùa xuân, tháng 2, vợ lẽ cố Tôn thất kỳ là Tống thị có vẻ xinh đẹp, khéo ứng đôi từng nhân việc vào ra mắt, đem tình trạng đau khổ kêu xin và xâu một chuỗi (ngọc) bách hoa để dâng. Chúa thương tình, cho được ra vào cung phủ. Thị thần có người cản, nhưng chúa không nghe” cThực lục, TB 3, Sd tr/70).

Tình hình giáo đoàn vào năm 1639

Nói chung, các giáo sĩ đã tới đàng trong từ năm 1615 vẫn được tương đối tự do hoạt động, nhưng kể từ năm 1628 không thấy có người mối, Hơn nữa, không biết có phải năm hoàng tử Kỳ mất (1631) hay từ khi Sãi vương thăng hà (1635) mà giáo đoàn gặp nhiều khó khăn. De Rhodes viết trong Hành Trình và Truyền giáo: “Ba Tân Chúa ra lệnh trục xuất. Người ta tố cáo về tội như

tội để cho giáo dân mấy thế kỷ đầu: ngăn cản cơn mưa và cho đất cằn cỗi. Vu khống này làm cho lương bực tức đến nỗi họ định giết các ngài... Có vị tạm rút lui về trốn tránh ở nhà giáo dân, các vị khác tạm trẩy vồ Macao ít lâu, để rồi trở lại đem theo phẩm vật để xoa dịu chúa. Nhờ phương kế này, các ngài đã dễ dàng làm cho chúa rút lệnh trục xuất. Cứ thăng trầm tốt xấu như thế cho tới đầu năm (1639) là năm xáy ra tai họa lớn cho giáo đoàn quẫn bách” (Rhodes, Sd.q.2,ch.l2) Hai tai họa lớn đó là gì. Thứ nhất, viên trấn thủ Quảng Nam rất ghét đạo, nhưng được lòng chúa, ông đã nghe lời vu cáo và tâu lên lằm cho chúa hoảng sợ. Ông cho đi lục xoát ảnh tượng đạo và đe dọa những người dám đưa vào đất nước những vật khả ố đó. Người Bồ đã can thiệp, nhưng chỉ cứu được ảnh thánh không bị thiêu hủy, còn các giáo sĩ thì phải xuống tàu trở về Macao “bỏ lại đoàn chiên bé mọn”. Tai hoạ thứ hai là cái chết của cha Buzomi, vị tông đồ tiên khởi Đàng Trong. De Rhodes viết: “Tin đoàn các cha bị tan vỡ đã làm cho cha Buzomi quá xúc động khi cha về Macao để thương lượng mấy việc cho chúa Đàng Trong. Thế là ngài ngã bệnh, sau mấy ngày ngài đã qua đòi. Thật là một tổn thất nặng nồ cho Đàng Trong. Một vết thương lớn hơn việc trục xuất”. (De Rhodes, Sd. q.2 ch. 13). Việc thương lượng cho Nguyễn Phúc Lan ở đây có thể hiểu là việc thu xếp cho người Bồ đem hàng hóa tới buôn bán với xứ ta, hoặc cũng có thể là nói với họ đưa những gì thuộc về chiến tranh như võ khí? Thế là vào đàu tháng 2 năm 1Ố40, De Rhodes, sau 10 năm ở Trung Quốc (1630-1640), đã được cử đi Đàng Trong. Ông viết:

7

80

“Tôi hớn hở trẩy đi vào đầu tháng hai năm 1640, hy vọng được lòng chúa và tái lập nưđc chúa Kytô trong lãnh thổ này. Được thuận buồm xuôi gió, chỉ sau bốn ngày tôi đã tới nơi, chỉ có một mình tôi là linh mục và thuộc dòng Tên, nhưng bè trên đã hứa sau đó sẽ có cha Phêro Albérto người Bồ đến cộng tác vói tôi, ngài vừa nhiệt thành vừa khôn ngoan, Đó là hai đức tính có thừa nơi nhân vật ưu tú nàỵ. Và thật vậy, sau ít lâu ngài đã tới và chúng tôi nhất tâm phục vụ thày chung của chúng tôi”. (De Rhodes, Sd.q.2,ch.l3). Thế là từ năm 1640 chúng ta có những bài tường trình của

De Rhodes, của Saccano, của Cardim, của Maracci để biết giai đoạn truyền giáo dưới thời Nguyễn Phúc Lan, đồng thời cũng nhờ vào sử của ta để tìm hiểu cho thấu đáo. Năm 1640, quân của chúa Thượng lấy được Châu Bắc Bó Chánh, Trong trận này Nguyễn Phúc Kiều có tham dự và góp công không nhỏ. Thế nhưng về Nguyễn Phúc Lan, Thực Lục viết: “Bây giờ chúa thấy biên cương không có việc đáng lo, thường chăm yến tiệc vui chơi, xây dựng cung thất công dịch không ngớt, Nội tán Phạm (bấy giờ gọi là Vân hiên hầu) can rằng: 'Thần nghe bậc vương dùng người hiền làm cột, lấy đức tốt làm thành ung dung rũ áo chắp tay mà yên vững như núi Thái Sơn. Xưa kia Nghiêu Thuấn dùng nhà cỏ tranh không xén, xà cột không đẽo, mà chư hầu cảm nhân, bốn rợ mến đức, hà tất phải nhà cao cửa rộng mới yên thích đâu? Nay họ Trịnh trên thì ép vua Lê, dưới thì hiếp công khanh, vốn có ý dòm ngó ta. Chúa nến lo lắng siêng năng, xem xét thòi cơ, mở mang bờ cõi, nếu không nghĩ điều ấy mà chỉ chăm việc thổ mộc, thì thần chưa biết như thế có nên không". Chúa nghe, đổi sắc mặt mà nói: 'Đây đều là do người ta xu ninh bày ra, thực ra không tự ý ta’. Tức thi ra lệnh đình bãi các việc” (77WClục, Tb.3, Sd tr.72). Thực ra, nhà chúa cũng có sửa đổi và chăm chỉ bắt quân sĩ luyện tập binh đao, chăm lo việc nước, nhưiTg vẫn còn có ý mê thích của châu báu và vưứng vào vụ Tống Thị.

Tống Thị Về Tống Thị, chúng ta đã biết bà là con gái Tống Phước Thông, vợ mọn hoàng tử Kỳ, nay góa chồng, bà đi lại ừong phủ Nguyễn Phúc Lan làm cho người ta dị nghị. Cận thần can dán chúa, nhưng chúa không nghe. Vào năm 1640, theo Lê Quý

82

Đôn trong Phủ biên Tạp lục, người ta thấy nói tới bà như sau: “Năm thứ 6 (1640) triều đình giết trấn thủ Bắc Bố Chính là Hiền quận công, Nguyễn Khắc Loát. Nhân quận công nguyễn Phúc Lan cho là trừ được quân mình ghét, rất mừng. Lại thông dâm với chị dâu góa chồng là Tống Thị, nó nói gì cũng nghe, người dưới cản không được, giết người bừa bãi, người ta đều sợ. Trong cõi hạn và đói, dân xiêu giạt và chết đoi rất nhiều”. (Lê Quý Đôn, Sd. tr.54)Ề Thực ra sử ghi năm 1637 và năm 1641 có nạn đói kém và dân chết chóc nhiều. Dẫu sao Lê Quý Đôn phê phán khá gay gắt việc hoang dâm của nhà chúa với Tống Thị. De Rhodes cũng viết vê bà này trong vụ thày giảng Inhaxu đã đanh thép phi báo những lý lẽ của một vị hòa thượng, người tin cẩn của Tống Thị. “Bấy giờ tôi nhờ thày Inhaxu, có mặt ở đây đứng ra bắt bẻ họ, vì thày rất thông kinh điển và có ơn rất đặc biệt để phi bác thuyết sai lầm. Thày nói hùng hồn và sáng sủa làm cho tất cả đêu chịu thua, nhưng còn ngoan cố chưa chịu trở lại đạo. Chịu thua trong dịp này, họ như điên lên chống lại thày. Từ đó họ thề sẽ hãm hại thày và để đạt ý đinh, họ nhờ một bà mà chúa coi như vợ chúa, mặc đau trước đây bà là vợ người bào huynh của chúa, điều mà luật xứ này ngăn cấm, nhưng sắc dục có biết luật pháp là gì”. (De Rhodes, Sđ.q.2 ch.29). Không còn khó khăn gì để hiểu lời lẽ trên, vợ của người bào huynh tức Tống Thị. Hoàng tử trưởng tức hoàng tử Kỳ, làm trấn thủ Quảng Nam cho tới khi mất là năm 1631. Đến năm 1644, để thi hành thủ đoạn giết Inhaxu, họ đã dựa vào thế của bà này mà ra tay trừng trị. Không bắt được Inhaxu, họ đã để tay trên thày giảng Anrê Phú Yên. Rhodes viết: “Vào tháng Bảy Năm 1644, quan trấn thủ Quảng Nam từ phủ chúa về,đem theo sắc lệnh không phải cùa chúa, vì chúa •

' ' vẫn tỏ thịnh tình với tôi, nhưng của bà chúa xưa nay vốn ghét đạo, như tôi đã nói và nhất là bà đã thề sẽ hãm hại Inhaxu. Quan trấn này tự nhận cống việc vì hợp với ý xấu ôm ấp từ lâu”. (De Rhodes, Sd.q.2 ch.32). Khi viết lại lai lịch cuộc tử đạo của Anrê Phú Yên, Saccano cũng nói cái âm mưu độc ác của bàẵ “Nhất là hoàng hậu, bà này trước đây là vợ người anh cả của chua và hiện nay là như chính phi, tuy theo luật nước bà chưa được kể là hoàng hậu, bà vô cùng ghét Inhaxu hơn. mọi Kitô hữu khác, vì một cuộc tranh luận mà Inhaxu đã tổ chức để chống lại một trong những thượng tọa danh tiếng nhất, vị này lại rất được lòng bà vương phi. Ngưôi ngoại đạo này đã hiển nhiên nhận những sự dối trá cỏa mình và rất mực xấu hổ, ông ra khỏi hội trường rất bực tức cũng như đã bị sỉ nhục trước mặt hoàng hậu, bà này một phần cũng bị bẽ mặt. Do đó bà quyết tâm nghiền ngẫm một sự điên rồ và ghen ghét, vì chưa thể hãm hại được kẻ đã hiển hách hạ được một trong m

«

m

m

*

m



w

những người chủ trương sai Tâm và bênh vực đạo giả. Và theo thường lệ người đàn bà hay đem hết tâm lực để báo thù khi lên cơn giận dữ, nên bà này lập mưu mô để sát hại Inhaxu, bà suy tính và cho thi hành bằng những mật lệnh trao cho hết các người nào có thể làm cho dự định của bà được thực hiện.” (Saccano, Tường trình năm 1646, ch.4). Để biết thêm về người đàn bà ghê gớm có một không hai trong lịch sử ta, chúng tôi ghi tiếp về quãng đời sau này của bà được chép trong Thực ỉục. “Mậu Tí nám thứ 13 (1648) mùa xuân, tháng giêng, quân họ trịnh đến xâm lấn. Chúa sai thế tử Dũng lễ hầu đánh phá được. Trước là Tống Thị đã được vào chầu cung phủ, đưa đón thỉnh thác, của cải chất đầy như núi. Chưởng cơ Tôn Thất

8

84

Trung mưu giết đi. Tống Thị sợ, nhân cha là Phúc Thông được Trịnh Tráng tin dùng, bèn viết một mật thư và xâu một chuỗi ngọc bách hoa bằng trân châu sai người đưa cho Phúc Thông để biếu họ Trịnh, lại xin Tráng cất quân, nguyên đem gia tài để giúp lương dân. Tráng nhận được thư mứi bàn việc xâm lấn miền nam. Đến đây sai đô đốc Trịnh Đào Thống lãnh các đạo quân thủy bộ kéo vào xâm lấn”. (Thực lục q.3 tr.75-76). Thế nhưng trong trận này, Tân thứ bốn theo sử gia Trân Trọng Kim, Trịnh Tráng thua to phải rút quân về. Cũng trong trận này, Nguyễn Phúc Lan mất. Trong Phủ biên Tạp lục Lê Quý Đôn viết: “Phúc Lan trúng độc của người yêu là Tống Thị, rút quân về. Ngày 26 tháng 2 về đến phá Tam Giang thì chết”. {Lê Quý Đôn, Sd tr.55). Thực lục không nói gì tới bà này, chỉ viết: “Ngày canh dần, chúa rút quân về. Bệnh nặng. Ngày tân mão, về tới phá Tam Giang, băng ở thuyên ngự” Ợkợ'c lục, q.3. Sd. tr.79). Thượng vương mất, nhưng tham vọng của Tống Thị vẫn chưa hết. bà còn thông đồng với hoàng tử Trung để làm loạn, vào đời chúa Nguyễn Phúc Tân.” “Giáp Ngọ năm thứ 6 (1654), mùa hạ tháng 4, chưởng dinh Trung có tội, bị hạ ngục. Trước là Tống Thị bậy bạ, Trung muốn trừ đi. Tống Thị sợ, bèn hết lòng chiều nịnh Trung, Trung bèn tư thông với, Tống Thị nhân đấy khuyên Trung phản. Trung bèn bí mật kết bè đảng, rắp mưu làm loạn. Thuộc hạ của Trung là Thắng Bố tố cáo, bị bắt trị tội, Trung thú nhận. Chúa không nỡ giết, cho giam xuống ngục, rồi chết.

Bèn giết Tống Thị lấy hết gia tài tán cấp cho quân dân.” (Thực lục Tb.3, Sd tr.84). Tới đây kết thúc một cuộc đời đầy gian ác trước mặt lịch sử, quốc sử cũng như giáo sử, bởi vì do lòng ghen ghét của bà mà mấy giáo dân bị sát hại. Không tìm được Lnhaxu, người ta đã giết Anrê, rồi vê sau lại ám hại được Inhaxu và người đồng sự VinxentêỂ

Hoàng tử Tôn Thất Khê Đây là một nhân vật trọng yếu trong mấy đòi tiên khởi của nhà Nguyễn ở Đàng Trong. Là con thứ mười của Nguyễn Hoàng, ông phục vụ Nguyễn Phúc Nguyên hết lòng. Năm 1626 được Sãi vương giao cho hầu hết các việc trong nước (Thục lục q.2, Sd. tr.52). Tái năm 1635 khi chúa mất thì đã giao phó thế tử cho ông để ông giúp đỡ và che chở (Thực lục q.2, Sd tr.66). Tới thời Nguyễn Phúc Tân, ông đã giúp nhà chúa giẹp được bọn phản nghịch nổi loạn do hoàng tử Anh đứng đầu vì thế ông được cỗ kiệu son và một ân đồng (Thực lục q.3, Sd tr.70). Ông mất nãm 1646, Thực lục viết: “Bính tuất năm thứ 11 (1646) mùa thư tháng 7, tổng trấn Tồn Thất Khê mất. Khê là người họ thân của chúa, giúp việc chính tộ trước sau 41 năm, trải qua ba triều, đức lớn công to, làm chỗ dựa quan trọng của đương thời, khi mất 58 tuổi. Chúa thương tiếc lám, tặng Tá lý Tôn thần bình chương quốc công, thụy là Trung nghị (năm Gia Long thứ 5 cho tòng tự ở Thái Miếu; năm Minh Mệnh thứ 12 phong Nghĩa hưng quận vương” (Thực lục q.3 sd tr 74) Trong các bản tường trình, người ta thấy khi thì nói ông là bào đệ của nhà chúa hay người em út của nhà chúa, tức em Nguyễn Phúc Nguyên lúc thì nói ông là chú của nhà chúa tức Nguyễn Phúc Tân.

86

Trong gia phả họ Nguyễn, cuộc đời của ông được ghi tỉ mỉ như sau: “Khê, con thứ 10 (của Nguyễn Hoàng) và bà Minh Đức Vương Thái Phi, ngài rất thông thạo ngành võ vị và có thiên tài, Ngài giữ chức chưởng cơ và tước là Tường Quang Hàu. Năm Bính dân Hiếu văn năm thứ 13 (1626) mùa thu, được chức tổng trấn và tước Tường quận công. Ngài có sư vụ lệnh tổ chức hành chính trong xứ. Sau đó, di chúc của nhà chúa được ủy cho ngài. Vào thời đó Anh con đức Hiếu vần làm phản, Khê làm tròn bổn phận và đem quân đi giẹp. Ngài bắt được và kết án tử. Để tỏ lòng tri ân ngài được chúa Hiêu chiêu (Công Thượng vương) ban cho ấn đồng và một kiệu son đen. Với danh nghĩa là thuộc hoàng tộc, suốt 40 nãm đời ngài, ngài đã góp phần vào việc tri nước, dưổi 3 triều chúa liên tiếp. Với các đức tính cao cả của ngài, ngài làmcho mọi ngưòti quý mến ngài. Ngài mất mùa thu năm Bính tuất, năm thứ 4 Phúc Thái nhà lê (1646) thọ 58 tuổi. Ngài được tôn là Thượng Trụ, Quốc Tổng Trân, và quận công. Ngài được mai táng ở xã Hiền Sĩ, phủ Thừa Thiên và đền thờ ngài được xây ở xã Nam phổ. Theo sắc vua Gia Long, một người trong dòng họ, ở mỗi hệ, đều được tước đội trưởng. Để sửa lăng tẩm thì còn được 15 sào ruộng và 6 người (phục dịch). Ngài được thờ ở Thái miếu, đến đời Minh mạng, ngài được tước Nghĩa Hưng quân vương. 13 người con của ngài là: Thanh, Nghiên, Sanh, Thiêm, Thật, Độ, Mão, Minh, Nghị, Pháp, Lũ, Triều và Diêu. Tất cả, Trừ Sanh hay Đạt là quận cống, còn thì đều được chức chưởng Dinh. Danh sách ngài được ghi trong sổ hàng tộc, ở hệ thứ hai” (Do Cadière trích dịch, trong bài đã dẫn, ừ. 1415). Theo một tư liệu khác, người ta được biết, hoàng tử Khê sinh ngày 19 tháng 2 năm 1589 và mất ngày 22 tháng 8 năm 1646. (Cadière, Sd. tr.15).

Trong giáo sử của ta, khi nói tới bà Minh Đức Vương thái phi thì thường cũng nói tới hoàng tử Khê con bà. Do đó, chúng ta tìm hiểu biết ông hoàng này qua bà thân mẫu theo đạo Kitô pháp danh là Maria.

Bà Minh Đức Vương Thái Phỉ Về bà Minh Đức Vương Thái Phi, chính sử nhà Nguyễn không nói gì tới, chỉ nói về hoàng tử Khê như chúng ta thấy ở trên vì ông này giữ chức vụ rất quan trọng trong thời Nguyễn Phúc Nguyên và Nguyễn Phúc Lan. Trái lại trong tường trình của các giáo sĩ, thường thấy đề cập tứi một bà thứ phi của chúa quá cố, một bà hoàng có họ gần với chúa, một bà sang ữọng và rất đạo đức tên là Maria, bà thân mẫu của chú nhà chúa, bà dì của chúá. Về tên rửa tội của bà thì thường gọi bà là bà Maria, nhưng cũng có khi xưng tên bà là Maria Mađalena. Người đầu tiên tìm kiếm là giáo sĩ Cadière, nhà học giả trứ danh. . Khi đọc những tư liệu vào thế kỷ 17, thường là bằng tiếng Pháp, tiếng Ý, ông thấy khuôn mặt của bà này rất mực trong sáng và dễ gây cảm tinh. Ông bắt đầu để ý và đã tìm nhiều tư liệu hiếm, không những có ở Việt Nam mà còn ở các thư viện Âu Châu, cái công phu tìm kiếm này đã đem lại một kết quả không ngờ. Ông bắt đầu nhận ra hai bộ riêng biệt ữong cái danh từ Maria, Maria Mađalena: Một là Maria tức bà Minh Đức Vương Thái Phi, hai là Maria Mađalena vợ ông trấn thủ Phú Yên. Việc nhận ra danh hiệu bà Vương Thái Phi này cũng là nhờ vào một nguồn lịch sử không thuộc quốc sử. Đó là tập gia phả họ Nguyễn. Trong tập này có một trương nói về hoàng tử Khê như chúng tôi vừa ghi lại ở trên: “Khê, con thứ 10 (của Nguyễn Hoàng) và bà Minh Đức Vương thái phi.”

8

88

Thế là hình ảnh bà vương phi này được rõ rệt trong bài của Cadière nhan đề là “Một bà hoàng theo Kitô giáo trong triều đầu tiên nhà Nguyễn (ưne princesse chrétienne à la Cour des premiers Nguyễn), đăng trong tập san Đô thành Huế hiểu cổ (Bulletin des Amis du Vieux Huế) Người thứ hai nghiên cứu thèm là Phạm Đình Khiêm, Theo người đi trước là Cađière, õng bắt đàu thấy hiện lên, ngoài bà vương thái phi, hai nhân vật khác, một là cống chúa Ngọc Liên toong danh hiệu vợ ông trấn thủ Phú Yên Nguyễn Phúc Vinh, hai là công chúa Ngọc Đỉnh vợ phó tướng Nguyễn Phúc Kiều. Cuốn sách về bà Minh Đức Vương thái phi đã xuất bản năm 1957 ở Sàigòn, còn bài viết về hai công chúa kể trên thì đăng trong tạp chí Đức Mẹ Hằng cứu Giúp, chúng tôi không nhớ nãm. Không được đọc mấy tư liệu trên của Phạm Đình Khiêm, chúng tôi dựa vào những bài tường trình có trong tay để vắn tắt viết lại về những khuôn mặt trong sáng này.

/ệ Bà thứ phi của chúa quá cố\ Người ghi mấy chữ này là giáo sĩ Francesco Cardim trong bản tường trình viết bằng tiếng Bồ và được dịch ra tiếng Pháp xuất bản tại Paris năm 1Ố46. Ông viết: “ở đây (Quảng Nam) các cha tranh luận với các thượng tọa và đem lý lẽ khuất phục họ, và đã thành công vì có mấy ngưòi trở lại theo Thiên Chúa giáo. Trong số này có một bà thứ phi của chứa quá cố, mấy người trong hàng quý phái và mấy viên quan”. ĐÓ là vào những năm 1618-1625 với các giáo sĩ Buzomi và De Pina. Còn chúa quá cố tức Nguyễn Hoàng thì ngài mất năm 1613, Bà thứ phi này hẳn còn trẻ. Nếu hoàng tử Khê sinh vào năm 1589 thì lúc đó Nguyễn Hoàng đã 64 tuổi, còn sinh hoàng tử thứ sáu thì tiên vương mói 38 tuổi* Một vị đế vương thời

xưa có các bà thứ phi trẻ tuổi, thì không có gì là lạ. cũng không có gì là lạ khi thấy sử gia ghi bà chính phi, chứ rất ít khi ghi bà thứ phi. Về bà chính phi thân mẫu Nguyễn Phúc Nguyên, Thực Lục viết: ‘Truy tôn phi là từ Lương Quang Thục Ý phi. Năm Gia Long thứ 5 truy tôn phi là Từ Lương Quang Thục Minh Đức Ý Cung Gia dụ hoàng hậu, Lăng gọi là Vĩnh cơ” (Thực Lục q.l, Sd tr.45). Như vậy, bà chính phi có danh hiệu là Minh Đức Ý Cung Gia dụ hoàng hậu; Còn bà thứ phi là Minh Đức Vương thái phi, theo gia phả họ Nguyễn.

2. Bà hoàng có họ gằn với chúa. Năm 1624, khi De Rhodes tới Đàng Trong Tân thứ nhất, ông đã cùng đi với giáo sĩ De Pina. thầy dạy của De Rhodes. Ông viết trong Hành trình và Truyền giáo: “Từ đó chúng tôi vào trong phủ và khi đi qua chúng tôi ở lại ít bữa ở Hóa, nơi có một bà hoàng, họ gằn với chúa và rất sùng thần ngoại, nhưng khi nghe cha Pina giảng thì được ơn Thiên Chúa soi sáng, bà liền bỏ sai lầm và xin chịu phép rửa tội, lấy tên là Maria Mađalena. Từ đó bà là điểm tựa của giáo đoàn này. Gương của bà và thế giá của bà đã giúp rất đắc lực cho việc chinh phục lương dân và duy trì lòng nhiệt thành nơi những kẻ chịu phép rửa. Tôi vẫn thường gặp bà trong suốt thời kỳ tôi ở xứ này và tin rằng bà vẫn kiên trì từ hai mươi tám năm trong việc thi hành các nhân đức đạo chúa Kitô. Trong tư dinh của bà có một nhà nguyện rất đẹp. Trong những vụ bắt bớ gắt gao nhất, nhà nguyện đó vẫn không lay chuyển, hàng ngày bà tói đó cầu nguyện và thường mở cửa để chứa chấp các đạo hữu trong tỉnh. Bà vẫn điều khiển giáo

8

90

đoàn mà không ai dám phản đối. Bà còn dùng lời lẽ khôn ngoan khiển trách để chinh phục mấy ngưòi lương dân có thế giá, trong số đố có mấy người thuộc họ nhà chúa. Ngày nay bà vẫn là nơi trú ẩn cho hết các cha và không có giáo dân nào mà bà không giúp đỡ về những gì có thể làm được”, (De Rhodes, Sd. q.2 ch.4). De Rhodes viết cuốn Hành Trình vào năm 1652 để cho ấn hành năm 1653 vì thế ông mới nổi “từ 28 năm” (1652-28 = 1624) kể từ ngày ông gặp bà lần đâu tiên vào năm 1624 -1625. Còn về bà vương phi mà ông mới chỉ nói là bà hoàng có họ gần với chúa, bà này đã được cha De Pina rửa tội cho.

3. Bà sang trọng và rất đạo đức. Tháng 2 năm 1640 De Rhodes lại tới Đàng Trong sau 30 năm lưu trú ở Trung Quốc. Ông đã được ra mắt chúa Nguyễn Phúc Lan lúc này ở kim Long và hẳn bà Maria cũng đi theo nhà chúa và hoàng tử Khê về ở đây. De Rhodes viết: “Bà sang trọng và rất đạo đức, cha Phanchicô De Pina đã rửa tội, như tôi đã nói ở trên, tên là Maria, bà đã một mực mời tôi ở lại nhà bà, có một nhà thờ đẹp dùng làm nơi trú ẩn cho các giáo dân trong thành. Ngày dêm tôi bắt đầu chuyên chú đón giáo dân đến nhận các phép bí tích một cách hăm hở lạ thường. Hằng ngày tôi làm lễ, vì quá đông người nẽn trong dịp đại lễ, tôi phải làm mấy lễ. S(uốt tuần thánh tôi ở lại đây. Tôi thành thật nhận rằng, không phải ở Au Châu người ta xúc động khi nghe đọc sự thương khó Chúa Ky tô. Tôi ở lại ba mươi lăm ngày trong thành phố này rửa tội được chín mươi bốn lương dân và ngoài ia còn ba bà họ rất gần vói chúa, tôi đã rửa tộỉ trọng thể ngày lễ Phục Sinh. Cũng có một vị sư có tiếng bà Maria đã khuyên bỏ sai lạc. Vị này rất nhiệt tâm đến nỗi từ ngày đó, giúp chúng tôi rất đắc lực để làm cho người khác trở lại

đạo ta”. (De Rhodes, Sd. q.2 ch-14) De Rhodes khi nói vê bà Maria thì đã gọi bà là bà hoàng có họ gần với chúa, còn ở đây khi nói về ba người theo Kytô giáo thì lại gọi họ là những người có “Họ rất gần với chua”. Ba người này là những ai? Có phải là hai công chúa Ngọc Liên và Ngọc Đỉnh? Còn vị hoàng thượng sau này thành thày giảng làm việc tông đồ rất đắc lực.

4. Bà dì của chứa là bà María. Năm 1644, lần thứ nâm và là lần cuối cùng De Rhodes trở lại Đàng trong, ông đem lễ phẩm tiến chúa và được chúa tiếp đón niềm nở. Nhưng đây có thể chỉ là bề ngoài. Về phía nhà truyền giáo, ông chỉ theo đuổi mục tiêu giảng đạo, còn về phía nhà chúa, đã chớm nở một nghi ngờ có mầu sắc chính trị. De Rhodes viết: “Chúa Đáng Trong nghĩ rằng chúng tôi là những thày địa lý rất thông thái nên ngài sợ chúng tôi cũng tìm cho bà dì của ngài là bà Maria một phần mộ thuận lợi để vương miện được truyền cho con cháu bà, phương hại tới toàn thể con cháu nhà chúaề Ý tưởng đó làm cho chúa ghen tuông, khi thấy tôi ra vào tư dinh của bà và đàm luận bàn bạc với bà, như thể dự đinh của chúng tôi là tìm đất chôn cất bà khi bà qua đời, chứ không phải tìm cho linh hồn bà một ngai báu trên thiên quốc”. (De Rhodes, Sd* tr2 ch.25). Trước đoạn văn này, De Rhodes nói tới cái tục để mồ để mả với ý nghĩa gây hạnh phúc cho người còn sống. Đây có thể là một mưu IT1Ô để gán cho giáo sĩ một cái tội “chính trị” hòng có cách trục xuất ông ra khỏi bờ cõi* Vì thế ông phải lén lút thừa hành chức vụ. “Bà vương phi đạo hạnh này có những tâm tư rất xa tâm tưởng nhà chúa, nhiều Tân bà sai người vời tôi vào tư dinh để giảng cho bà hiểu cách sống đạo chứ không phải truyền

9

92

ngôi cho hậu thế”. Tồi phải đi lén lút, ban đêm để khỏi làm cho chúa nghi ngờ, giận dữ. Tôi gặp một bà có hết các nhân đức trong đạo, bà tiếp tôi như tìẽp một thiên thần, bà bắt tất cả đại gia đình, rất đông, chịu các phép bí tích, chính bà cũng xưng tội và rước lễ lần đầu. Hết các giáo dân đều tới dự, trong hai ngày tôi ở với họ và nhĩèụ người chưa được thấy làm phép lá bao giờ’'. (De Rhodes, Sd tr.2 ch.25). Trong Tường Trình về Đàng Trong, De Rhodes cũng viết:

“Các Kitô hữu kéo đến rất đông, địa điểm cũng thuận lợi có thể chứa hết, tuy là ban đêm để khỏi đập vào mắt những kẻ ghen ghét đạo, bed ánh sáng một nghi lễ rất long trọng. Tôi cũng biết là nhà chúa chẳng bằng lòng để cho tôi hành lễ trong nhà này, vì một mối lo sợ viễn vông: chúa sợ con trai bà hoặc cháu bà rất có thể cướp ngôi báu nhò vào phù phép của tôi.” Cơ sở sự lo lắng viển vông này bắt nguồn từ Trung Quốc. Trong các sách có nói và họ cho là thật rằng: nếu muốn được vinh danh phú quí, được thịnh vượng thì cần tìm được một địa điểm tốt để chôn cất cha mẹ, đặc biệt là mẹ. Vì thế họ làm hết sức để được việc này, họ không ngại tổn phí, Hơn nữa, họ ngu xuẩn tưởng rằng một địa điểm như thế có thể tìm được bằng thuật toán học. Mà vì chúa coi chúng tôi là những người tính thông và rất giỏi về khoa này, nên chúa nghĩ trong đâu rằng: bà này đã hơn 76 tuổi thọ, nếu một mai khuất đi, thì chúng tôi sẽ tìm và kiếm cho ra một địa điểm thuận lợi để chôn cất bà và sau này chúng tôi sẽ phát giác ra cho con trai bà, sau khi đã làm hết bổn phận báo hiếu mẹ thì sẽ chiếm được chủ quyền đất nước. Ý nghĩ mê tín này làm ngăn trở không cho tôi tự do ra vào tư dinh bà, chỉ thỉnh thoảng tôi nắm được cơ hôi thuận tiện và kín đáo tới cho bà được chịu các phép bí tích.” (De Rhodes, Sd.) Theo Cadière thì hình như bà chỉ có một người con là hoàng tử Khê, và bà thường ở với người con đó, ít ra trong một nhà

gần tư dinh của hoàng tử. Đại gia đình ở đây có thể hiểu là tất cả gia nhân, còn chính hoàng tử và các con của ông thì chưa theo đạo, trừ một vài như chúng ta sẽ có dịp nói tối.

5. Bà thân mẫu của chú nhà chúa Trong bài Tường trình viết tại Macao ngày 16 tháng mười năm 1645, sau này được in thành sách gọi là Tường trình vê Đàng Trong, Paris, 1652, De Rhodes gọi bà Maria là bà thân mẫu của chú nhà chúa. Từ ngữ này rõ ràng hơn, bởi vì Nguyễn Phúc Lan là con Nguyễn Phúc Nguyên, mà Nguyễn Phúc Nguyên là bào huynh của hoàng tử Khê. Như vậy Khê là chú của Nguyễn Phúc Lan. Tkuc ỉục chép việc Anh làm phản và Nguyễn phúc Lan đến khóc vói hoàng tử Khê, xin lãnh ý kiến, vì không biết phải xử sự ra sao: Anh là bào đệ của ôngề Sử chép: “Anh bất hiếu bất trung, tôi khống tha được. Nhưng tôi là con đương ở vào cảnh tang tóc đau thương, nay cầm dao mà đâm kẻ ruột thịt với mình, lòng tôi thực khồng X1Ỡ. Và vì một người mà làm lụy đến trãm họ, điều đó ngưòi nhân giả cũng thấy thương tâm.

9

Vậy tôi muốn nhường ngôi để tắt sự cạnh tranh, chú nghĩ thế nào?” (Thục lục, Tb.3, Sd tr.69). Sử đánh giá rất cao thái độ của ông chú này, đã không muốn lợi dụng thời cơ để cướp đoạt vương quyên của nhà chúa. De Rhodes viết về ông chú của nhà chúa: “Tất cả công việc trong phủ không cho phép tôi gặp bà thân mẫu của chú nhà chúa, bà này tôi đã nói ở trên; Bà đành liên tục sai người đến với tôi, ý bà là muốn xưng tội và rước lễ, nhất là từ gần hai nãm bà chưa được, gặp một linh mục nào. Cuối cùng bà cũng được toại nguyện, vì tôi đến dâng lễ lá trong nhà thờ bà đã cho dựng trong tư dinh của bà”. (De Rhodes, Sd.) “Đã gần hai nãm” có nghĩa là từ năm 1642 khi De Rhodes tới Đàng Trong Tân thứ bốn, có một mình. “Tôi đã nói à trên” tức là giai đoạn ông vắng mặt, khi ông trẩy về Macao vào tháng 9 năm 1643. Trong thời gian này thày ĩnhaxu tiếp tục đi thăm các giáo đoàn về phía bắc, cho tới ranh giới Đàng Ngoài, rồi thày trở vồ phủ kịp mừng lễ Giáng Sinh. Yà đây là một trong những lễ Giáng Sinh rất cảm động, De Rhodes kể lại: “Ôm được những chiến phẩm phong phú, Inhaxu trở về phủ mừng lễ Giáng Sinh với đám đông các Ky tô hữu và cả lương dân: Một máng cỏ được trang hoàng rất đẹp trong nhà một bà quý phái tên là Maria, thân mẫu của chú nhà chúa, một nữ Kytô hữu kì cựu, có đức tin can tràng qua nhiều biến cố thử thách. Lòng thành kính nổi bật trong ngày hôm nay, bà cho con bà và các cháu bà đền thờ lạy và tôn kính vua vinh quang giáng trần, bà rao giảng những vinh quang Thiên Chúa cho những người từ các ngẩ tuôn đến viếng máng cỏ thánh”, (De Rhodes, Sd). Con bà tức là ông chú nhà chúa và các con của ông chú nhà chúa này chỉ mừng như mừng một lễ lớn của người Kytô hữu, chứ không phải là người có đức tin, người Ky tô hữu. Theo gia phả họ Nguyễn, thì ông chú này được 13 ngưòi con trai và theo

một tư liệu khác, ngưèti ta còn được biết ông còn được 16 người con gái. (Cadière, Sd. tr.15).

ố. Bà María Bà dì của chúa,

với các nữ tu dòng Phan người Tây ban nha.

De Rhodes nói tỉ mỉ vê vạ chiếc tàu Tây ban nha chở mấy nữ tu dòng Phan bị giạt vào cửa biển Đà Nẵng vào tháng hai năm 1645. Đây lại là một cơ hội cho bà Minh đức Vương thái phi tỏ ra lòng mộ mến những nhà tu hành thánh thiện. Nếu không có sự phiền lụy từ phía nhà chúa, thì bà sung sướng được tiếp đón đàng hoàng nhũng ‘Thánh nữ” này. Nhưng khổng, bà đã phải kín đáo và lén lút tới thăm. De Rhodes Viết trong Hành trình và Truyền giáoỂ. “Sau mười mấy ngày ở đây, các nữ tu và đoàn thể xuống thuyền để ra bến Quảng Nam lấy tàu. Giáo dân thảy đều luyến tiếc thấy họ trẩy đi: Các bà sang trọng quyền quý cùng các bà khác đêu đến từ biệt, nước mát tuôn roi. Có mấy người theo họ ra xa, người khác đứng ttên bờ trông theo bằng mắt và băng tâm hồn. Còn bà Maria, bà dì của chúa, bà đã tới đón họ frong một chiếc thuyền đậu thật xa. Bà có tình quyến luyến và tặng nhiều quà. Bà rất trọng tấm áo dòng của các nữ tu. Còn các nữ tu thì tạm tặng bà một giây thắt lưng bằng thừng chão và hứa sẽ gửi biếu sau một áo dòng. Và thực ra các nữ tu đã trung thành giữ lòi hứa khi tới Phi/’ (Đe Rhodes, Sd q.2 ch.43). Ngày ly biệt hôm đó là ngày thứ bảy tuần thánh nãm 1645. Trong bản tưởng trình nói trôn, De Rhodes nói khác hơn một chút, nhưng đượm một cái gì lâng lâng, buồn buôn, một phần ông đả động tới bầu không khí khó thở lúc đó giữa Nguyễn Phúc Lan cháu bà và hoàng tử Khê con bà, và một phần ông

9

nói tới ý nghĩ của bà Maiia về tấm áo dòng có thể sẽ là tấm áo liệm xác bà sau này. “Thiên chúa cho vụ này trở thành hạt giống nảy sinh các công việc và các phiền lụy cho bà thái phi khôn ngõan, bà dì của chứa. Bà khá sầu muộn vì không thể tự do ra đón tiếp tỏ tình thân thương đôi với các nữ tu của Thiên Chúa. Bà đành chịu sự thua thiệt để khỏi làm rầu lòng con bà và cả chính nhà chúa nữa: Họ sẽ có thể nhân cơ hội này mà thêm tàn bạo hành hạ bát bớ đạo ta. Thế nên bà cũng không ngồi yên được, bà hết sức kín đáo, cho người chở một thuyền nhỏ đên thăm, ít ra là một làn, các nữ tu, nhìn thấy tận mắt tấm áo dòng của các bà và được thỏa thuê đàm đạo về sự đạo với các bà. Câu chuyên của các nữ tu đã làm cho bà đau đớn khôn tả và bà rất mực quý mến đến nỗi hình như bà không sao rời bỏ các nữ tu được. Để cho nhẹ bớt những tâm tình nhớ thương sau lúc biệt ly vội vàng thì bà muốn được một biểu hiệu của tình kết hiệp các tấm hồn, bắ ngỏ lời xin các nữ tu một bộ áo dòng để cho khi bà nhắm mắt lìa đời bà được tấm liệm trong tấm áo đó. Các nữ tu vui lòng nhận tặng bà với tất cả bằng chứng về sự thân yêu tương hỗ, rồi các bà từ biệt nhau sau những cái hôn thánh thiện và tất cả sự trìu mến của tình bác ái toàn vẹn, rồi ngay sau đó các nữ tu bỏ về hải cảng Đà Nẵng.” (De Rhodes, Sđ). 7. Nhà thờ của bà Maria bị phá đổ. Đây là một. sự việc vô cùng đau đớn cho bà Vương thái phi. Cho tới đây, bà cho chúng ta một cảm tưởng rất tốt về bà và người ta có thể coi bà như một người rất thánh, đáng được giáo hội tôn phong tựa như những bà hoàng hậu thời danh thuở xưa kia ở mấy nước Âu Châu, khi Kytô giáo mới chớm nở ò các vương quốc đó, tỉ như thánh nữ Hêlêna thân mẫu hoàng đế

Constantinô, thếkỷ thứ 4, thánh nữ Clotilde chính phi vua Clovis, thế kỷ thứ 6. Vói sự việc đáng tiếc xảy ra lúc này, người ta lại càng thấy bà là một người can tràng, chịu đựng vì niềm tỉn, vì đạo. •

Câu chuyện này được De Rhodes tường thuật lại trong cả hai cuốn sách. Trong Hành trình và Truyền giáo, ông đã đặt sau việc đi thâm các nữ tu, nhưng cũng có thể cho người ta hiểu sự việc đã xẩy ra trước đó. Còn trong Tường Trình về Đàng Trong, thì ông lại đặt việc phá nhà thờ trước việc đi gặp các bà nữ tu. Chúng tôi ghi lại lời lẽ trong Hành trình trước: ‘Từ Hội an tôi thấy đến lúc đi yên ủi giáo dân ở trong thành của chúa. ít ngày nay họ mới có một tin tất buồn, nhất là ngưòi đầy tớ Chúa là bà Maria, dì của nhà chúa, bởi vì con bà, chỉ vì một sự chế giễu nhỏ chúa tỏ ra chống giáo dân mà đã cho phá ngôi nhà thờ rộng lớn bà đã cho cất trong tư đinh của bà. Bà quá đau đớn đến nỗi trong tám ngày liền bà như điên cuông chạy đây đó không còn thiết gì nữa. Tôi đến yên ủi bà, nhưng không dám ra mặt ban ngày ừong thành phố lớn này, tôi ẩn ưánh trong một thành phố nhỏ hơn ở bên cạnh. Bà vừa biết thì liền bỏ dinh đến thăm tôi. Một số đông giáo dân cũng theo bà và Thiên Chúa đã chúc lành cho công việc của chúng tôi.” (De Rhodes, Sd q.2 ch.44). Thật đúng là nỗi đau đớn của một nữ giáo dân bị xúc phạm tận niềm tin tưởng sâu sa của mình. Hơn nữa việc này không do người ngoài mà là do chính con ứai của bà. Sự hoảng hốt như điên cũng rất tự nhiên và rất đúng tâm lý con người bị vết thương lòng khá nặng. Trong tám ngày bà như điên cuồng chạy đây đó: Thật là cảm động, thật là xót thương. Còn về một chế diễu nhỏ thì De Rhodes ở đây không nói rõ là việc gì. Trái lại trong Tường Trình, ông cho chúng ta biết tỉ mỉ hơn.

9

98

Có thể là vì ở tư dinh bà có nhà nguyện và các giáo sĩ thường đến dâng thánh lễ và biết đâu cũng thường có người Bồ đi theo hoặc đến dự. Bà Maria tiếp đón nên hoàng tử Khê cũng có dịp quen biết người ngoại quốc. Rồi trong những cuộc vui bữa tiệc, người Âu châu hay có tính vui đùa, ăn nói phóng khoáng, diễu cợt làm trò vui nhộn, khác với nho sĩ hiền giả thuộc phái nhà nho cổ hủ của ta, Nguyễn Phúc lan lấy cớ để ra vẻ khiển trách hoàng tử Khê đã quá theo thói tục người ‘Tây” hoặc “tây quá”, rồi từ đó gián tiếp chỉ trích bà dì theo Kitô giáo, một phần nào “theo Tây”. Vì led khiển trách đó mà hoàng tử Khê cho phá ngôi nhà thờ của bà thân mẫu. “Vậy cũng là phán đoán ghê rợn các dân này thường đưa ra, khi có gì mới và hiếm xẩy ra nơi họ, những sự việc vượt khả năng họ. Họ cũng có tâm tình như vậy về mấy trò chơi hay mấy việc tiêu khiển khác mà mấy người Âu châu chúng ta làm trước mặt họ; ngay đến nhà chúa bỡ ngỡ vì sự khéo tay và nhanh nhẹn trong mấy trò mua vui để giải trí, ngài nghĩ ngợi và sợ hãi, quay về phía ông chú là em của đức thân phụ, ngài khiển trách ông vì ông đã học được nhiều điều, vì ông để cho các ngưcd của chúng tôi đi lại quen thân với ông, bởi vì thân mẫu ông theo Kitô giáo. Vậy cái sợ bóng sợ vía này của chúa, ngài không ưa gì đạo ta, đã ăn sâu vào tâm khảm hoàng tử đến nỗi để cho người ta không còn nghi ngờ ông kiêng nể thì ông không quản bắt đàu hành hạ chính thân mẫu ông, do chính ông hay các con ông. Bắt đầu cuộc dự đinh giận dữ này là cho triệt hạ nhà thờ nhỏ bà vẫn quen dùng để đọc kinh cầu nguyện cùng gia nhân và các Kitô hữu ở bên ngoài. Bà thái phi nhân đức này lúc đó đã thọ thất tuàn, rất có lương tri và lòng trung thực cồn cao quý hơn nữa, bà cảm thấy tê tái buồn phiền về tội phạm thượng nàyđến nỗi trong tám ngày trọn bà than van khóc lóc liên tục như thể chính bà đã cộng tác vào sự phạm đến nhà

Thiên Chúa, bởi vì bà đã khổng ngàn cản nổi. ế Nhưng khi được hỏi về vấn đề này thì tối đã yên ủi bà cho bà vững tâm, tội đã phạm ngoài ý muốn của bà, hơn nữa không sao chống đối nổi, như vậy trước mặt thiên chúa bà hoàn toàn vô tội.” (De Rhodes, Sd). Thực ra hành động này của ống nằm trong bản tính của ông. Ông đã hy sinh chữ hiếu để bảo tồn chữ trung, trung với người bào khuynh Nguyễn Phúc Nguyên, trung với người cháu Nguyễn Phúc Lan và như sử đã chép khi ông mất: “Khê người họ thân của chúa, giúp việc chính tri trước sau 41 năm, trải qua ba triều, đức lán công to, làm chỗ dựa quan trọng của đương thòi.” 8. Lời nhà chúa nhắn nhủ bà Maria. Đầu tháng 7 năm 1645 De Rhodes vĩnh biệt Đàng Trong, nhưng tháng hai năm sau có hai giáo sĩ tới. Đó là cha Metello Saccano và cha Balthasar Caỉdera, cả hai đêu tinh thống tiếng việt. Trong bản tường trình viết tại Đàng trong ngày 16 tháng 6 năm 1Ố46, Saccano viết: ‘Thực ra từ trong thâm tâm, ngài (Nguyễn Phúc Lan) xác tín về chân lý và sự thánh thiện của đạo ta, nhưng ngài không khoan dung cho công khai thực hành vì những lý do không ai được biết. Nhiều làn người ta nghe ngài nói, nếu thần dân ta muốn làm người Kitô hữu, chúng hãy khôn khéo giữ trong lòng, miễn là bên ngoài không thấy gì, và đó là lời nhắn nhủ ngài gửi tới bà Vương phi Maria thân mẫu của ông chú ngài, rất đạo đức, theo bài tường thuật trước đây, người ta đã nhận là bà không còn cho hội các Kitô hữu trong tư dinh của bà, mặc dầu ngài để cho bà tự do theo Thiên chúa giáo trong tâm tư bà*” (Saccano, Sd). Hẳn là bây giờ nhà thờ đã bị triệt hạ và bà chưa dám cho xây cất lại. Nếu đối chiếu với niên đại trong sử của ta, thì thấy lúc

9

100

này chưa phải là thời thuận tiện. 9* Rửa tội cho mấy công chúa cháu của bà. Saccano còn cho biết, cũng ưong bài Tường trình kể trên: “Bà thân mẫu của ông chú nhà chúa một đêm đã cho mời cha Calđera vào tư dinh để rửa tội cho hai công chúa trẻ tuổi, các cháu của bà.” (Saccano, Sá). Trong giả thuyết, bà Minh Đức chỉ có một con trai là hoàng tử Khê (bởi vì không thấy nói tới người con nào khác và cũng thấy bà thường ở cạnh con bà), thì những công chúa cháu gái của bà là con của Khê. Như trên chúng tôi đã ghi, ống được những 16 người con gái. yà nếu chỉ có hai người thì cũng không quá đáng và biết đâu vì để yên ủi bà sau vụ triệt hạ nhà thờ, con bà đã bằng lòng để cho hai người con của mình theo Kitô giáo, và cũng biết đâu hai công chua này một phần cũng vì đau xót cái đau xót của bà mình mà nhất tâm đi theo bà nội. •

Bản văn trên cho biết việc này cũng phải làm trong kín đáo, ưong tránh né, không nên làm giữa ban ngày, vì cái bầu khồng khí khó thở lúc này. 10. Bào đệ của Nguyễn Phúc Nguyên. Có một bản văn khó hiểu đối vái chúng tôi, đó là lời lẽ của Francesco Cardim khi viết về bào đệ của chúa. Cardim đã phân tích rất tỉ mỉ trong bài chúng tôi đã dẫn. Đây là led. Cardim. “Cha Bento De Mattos tới phủ Thuận Hóa, được chúa tiếp đón rất thân tình. Cha cũng tới thầm bào đệ của chúa và khi đàm đạo vói ông thì cha nhân cơ hội giảng về đạo Thien Chúa thật và hối thúc ông chịu phép thánh tẩy, nhưng ông chỉ muốn làm cách kín đáo không cho ai biết Cha rất có thể rửa tội cho ông nếu ông vững chí, nhưng đàng này ông nói là nếu người ta phát giác ra và nếu nhà chúa bào huynh của

ông có hỏi ông xem ông có là Kitô hữu hay không thì ông sẽ trả lòi là không. Thế là cha nghĩ nên hoãn lại và cho ông biết rằng đức Kitổ chỉ nhận vào nước người những kẻ công khai xưng danh người mà thôi. Cũng vì lý do này mà cha khước từ không rửa tội cho hai người cháu ông đưa ra trình diện và cha chờ thời thuận lợi hơn. Cha đã đi thăm cả tĩnh và rửa tội được 572 người và người ta hy vọng mùa gặt mỗi ngày mỗi phong phú hơn lên.” (Cardim, Sd) Hoạt động của De Mattos được đinh vào thời gian năm 1640- 1641, khi De Rhodes làm việc ở miền Nam và De Mattos ở miền Bắc. Như vậy là dưới thời Nguyễn Phúc Lan chứ không còn là Nguyễn Phúc Nguyên. Do đó, thoạt đầu chúng tôi hiểu hoàng tử bào đệ của chúa là hoàng tử Trung, chứ không thể là hoàng tử Khê. Cha Cadière viết: “Hoàng tử Khê sinh ngày 19 tháng 2 năm 1589 thì năm 1640 đã được 51 tuổi. Như vậy ông đã khá đủ tuổi để có cháu nội cháu ngoại, nhất là như chúng ta đã thấy, ông có 13 con trai và 16 con gái* Vậy ông rất có thể đè nghị với giáo sĩ rửa tội cho mấy cháu ngoại của ông. Còn về những anh em của chúa thượng vương thì có khá nhiều. Nhưng chắc chắn là vào năm 1640, chưa có người nào có thể làm ông nội ông ngoại. Hãy để ra ngoài ông hoàng tử Kỳ đã mất năm 1631, người anh càỂ Cũng không kể Anh, kẻ nghịch thần bị án tử vào năm chúa Thượng lên cầm quyền 1635 và tuyệt tự, Cũng không kể An, Lộc, Tứ và Thiệu không ai biết gì về các ông và cũng mất không có hậu, Hoàng tử thứ tư của Sải vương la Trung thì bị tù năm 1654 vì phản nghịch rồi chết. Người ta biết ông cũng vô tự. Nhưng nếu ông sống vào thời điểm chúng ta đang bàn ở đây 1640 thì lòi “ghi chú” (trong gia phả) “chết vô tự” có thể che đậy nhiều uán khúc triều đình mà chúng ta không được biết: khi người ta giết cha thì cũng không hiếm trường hợp cũng mất luôn cả gia quyến. Chỉ còn lại Vinh, *

*•

1

102

được bảy con trai; Vĩnh, một con trai và Đôn cũng được một trai. Nhưng nếu biết chúa Thượng sinh ngày 13 tháng 8 nãm 1601, thì lúc này ông mới 39 tuổi và như vậy các bào độ của ông cũng khó mà làm ông nội ông ngoại. Cho nên làm thế nào để đưa các cháu ra cho cha Mattos ? Kết luận là phải công nhận “bào đệ của nhà chúa*’ ở đây không phải là bào đệ của chúa Thượng mà là bào độ của chúa Sãi, con trai bà Maria” (Cadière Sd tr.18) Sở đĩ Mattos còn gọi là bào đệ của chúa tuy bây giờ là chú của chúa Nguyễn Phúc Lan, là vì ông vẫn còn theo thói quen trong dân gian từ trước 1635 vẫn gọi hoàng tử Khê là bào độ cùa chúa Nguyễn Phúc Nguyên và mỗi khi đến thăm bà Minh đức thì cũng thường lại gặp con trai bà là hoàng tử Khê. Ông này cũng tỏ ý xa xa không nhất thiết theo Kitô giáo, nhưng ừong hoàn cảnh căng thẳng giữa Phúc Lan và ông chú, ông không thể công khai làm việc này được. Còn về hoàng tử Trung, bào đệ của chúa Thượng, như trên cũng đã nói tôi một phần, không thấy tư liệu giáo sử nào đề cập tới ông. Để biết qua về ông này thì cũng nên nhắc qua đôi lòi. Hoàng tử Trung con thứ tư của Nguyễn Phúc Nguyên, có dự vào trận đánh nhà Trịnh nãm 1627 (Thực Lục Tb.2, Sd tr.53), năm 1644 cùng người cháu là Nguyễn Phúc Tân lúc đố là Dũng lễ hầu đánh đuổi giặc Hà Lan (Thvc Lục Tb.4, Sd tr. 73), năm 1648 mưu giết Tong thị (Thvc Lục 3 Sd tr. 75), từ chối ídìông nhận ngôi báu thay thế tử Dũng lễ hầu khi chúa Thượng mất (Thực lục Tb 3, Sd tr,79), được thăng chưởng dinh; năm 1654, vì thông dâm với Tống Thị và mưu phản nghịch bị bắt bỏ ngục rồi chết (Thục Lục 4, Sd tr.84). 1L Bà Vương thái phi María qua đời* Cuối đời của bà được đánh dấu bằng một hạnh phúc là được gặp các nữ tu mà bà rất trìu mến, nhưng cũng bằng nhiều nỗi đau đớn như chúng ta đã biết: con bà đã vì chữ trung mà hy sinh chữ hiếu, cho triệt hạ nhà Nguyễn của bà, rồi sau đó đã

nhắm mắt lìa đời trước bà. Hoàng tử Khê mất ngày 22 tháng 8 năm 1646, cuối cùng ngưòi cháu của bà là Nguyễn Phúc Lan cũng mất trước bà ngày 19 tháng 3 năm 1648. Còn về bà thì vào cuối năm 1648 hoặc đàu nãm 1649, Saccano viết: “Đồng thời giáo hội Đàng Trong chịu một cái tang bà Vương thái phi Maria bà dì của chúa quá cố và (dưỡng) mẫu chúa đương thời. Các Kitô hữu mất mát rất nhiều do cái chết của bà Vương thái phi là người đã che chở họ trong cơn khốn khổ và cũng là người rất nhiệt tình để chinh phục các linh hồn về với đức Kitô. Bà thường rất cẩn thận dự trữ nhiều nước phép để phân phát cho giáo dân là những người sử dụng nước này vói rất nhiêu niềm túi, nên đã làm cớ cho một trong các cháu trai của bà tố cáo các Kitô hữu về một tội ác ghê gớm. Ông hoàng này đã tim thấy trong buồng của bà nội nhiều bình đựng nước phép và mấy tấm vải thấm máu các tử đạo, thế là ông tung ra cái tin-rằng nước phép của người Kitô hữu là một bùa ngải gồm có chân tay trẻ nhỏ bị chặt. Tin thất thiệt này làm cho người ta rất gớm ghét các Kitô hữu,thế nhưng kẻ phao ra tin đồn đã bị Trời giáng phạt, bởi vì một tháng sau, hắn bị xử tử vì một tội tầy đình, hắn đã phạm với một bà dì £Ủa chứa”... (Saccano, Sd) Bà dì của nhà chúa quá cố (Nguyễn Phúc Lan) biết đâu khỏng phải là Tống thị đã nói ồ trên. Còn về phần bà Maria thì hoặc là bà đã tắt thở vào cuối năm 1648 hoặc là vào đầu năm 1Ố49. Cha Cadière đã nghiên cứu rất tỉ mỉ và rất nghiêm chỉnh, trong bài đã dẫn, về những niên đại sinh tử của bà Maria Minh Đức Vương thái phi. Trước hết là phải nhận là vào năm 1644 một tư liệu nói bà thọ 76 tuổi, trái lại một tư liệu khác vào năm 1645 lại nói bà thọ chừng 70 tuổi, tức là không ổn. Nhưng phải cho là nhà in đã cho xếp chữ sai, đáng lý phải in là 76 thì lại sắp chữ là 70, •

1

104

như thường vẫn xảy ra. Vậy thì có thể kể năm sinh của bà là vào những năm 15721570 bởi vì De Rhodes nói lúc đó bà chừng 76 tuổi. Hoàng tử Khê sinh năm 1589 và mất năm 1646, như vậy hay tạm nhận bà sinh hoàng tử khi bà nới chừng 18 tuổi, và Nguyễn Hoàng 64. Còn nếu cho bà sinh hoàng tử năm bà 16 hay 19 tuổi thì cũng không có gì là trái với những sự kiện lịch sử, bởi vì một là cách tính tuổi của ta ngày xưa cũng có phần chưa chính xác hai là lời của De Rhodes nói “vào chừng 76 tuổi” thì cũng có thể hiểu trên dưới một vài năm. Còn về Nguyễn Hoàng lúc đó đã ngoài lục tuần mà lấy một bà thứ phi rất trẻ thì cũng không có gì là lạ theo phong tục thời đó. (coi: Cadière, Sd tr.45). Vậy có thể coi năm bà mất là vào cuối năm 1648 hay đâu năm 1649, còn năm sinh là những nãm 1570-1574, và năm bà sinh hoàng tử là năm bà mới được 15-19 tuổi. Năm chịu phép thánh tẩy là vào năm 1625. Bà mất trong khi bà là một đạo hữu nhiệt tình, bởi vì theo lời lẽ kể ở trên, tuy nhà chúa cấm đoán, song vẫn để cho bà tự do và kín đáo giữ đạo. Còn về vải thâm máu tử đạo, người ta được biết qua Saccano rằng: khi hai Kitô hữu bị chém đầu thì giáo dân đã chuẩn bị vải để thẩm mấu đem về làm di tích thánh (Saccano, Sd.1646 ch.2), Về đứa cháu nội hư đốn, có thể là hoàng tử trưởng Thanh: ông này muốn lấy lòng Hiền vương nên đi tố cáo cũng như hoàng tử Khê muốn được lòng Thượng vương nên đã cho triệt hạ nhà thờ của thân mẫu. Sau cùng, về phần mộ của bà thì không ai được biết. Nguyễn Hoàng được táng ở xã Thạch Hãn sau cải táng về xã Lai khê huyện Hương trà thuộc vùng Huế ngày nay. Hoàng tử Khê có phần mộ ở xã Hiền sĩ xa nội thành Huế 15 cấy số về phía bắc. Phần mộ của bà Minh Đức Vương thái phi hoặc là nằm cạnh Nguyễn Hoàng hoặc nằm gần hoàng tử Khê chăng? khống ai

bietế Dẫu sao, trừ bà chính phi được ghi tên tuổi trong sử sách, thì khồng một bà thứ phi nào của chúa Nguyễn Hoàng được ghi danh tánh, trừ bà Minh Đức Vương thái phi được kể trong gia phả nhà Nguyễn. Phải chăng cũng một phần lớn nhờ có hoàng tử Khê xuất đời đã một lòng trung túi với ba triều nhà Nguyễn. Thế nhưng nếu về quốc sử, bà không có chỗ đứng quang trọng thì ừong giáo sử, Kitô giáo sử, bà là người thuộc hoàng tộc đàu tiên theo đạo và có một đời sống gương mẫu, lành thánh, có thể được coi như một Hêlêna, một Clotilđe,

Bà Mađaỉena vợ quan trấn thủ Phú Yên

Cuối nãm 1640 De Rhodes tới Đàng Trong Tân thứ ba, cùng đi với ông có cha De Mattos. Hai ngưòti đã chia nhau hai ngả để hoạt động: De Mattos lên mạn bắc còn De Rhodes thì vồ phía năm. Phần địa điểm được chỉ định như sau: Thuận Hóa và Quảng Bình thuộc phía bắc, Quảng Ngãi, Qui Nhơn và Phú Yên thuộc phía nam, đĩ nhiên theo cách ghi trong bản đồ của De Rhodes vào năm 1651. De Rhodes viết trong Hành trình và Truyền giáo: ‘Tôi bỏ ra sáu tháng để đi một vòng cả ba tỉnh, khi thì đi biển mấy mần gần chết đuối, lúc thì đi sông, gặp nhiêu nguy hiểm, có khi đi đường bộ vất vả khó khăn không ít” (De Rhodes, Sd.q.2 ch~17) Ở Phú Yên, ông đã gặp một người nhân đức tên là Maria Mađalêna vợ quan trấn thủ, Ông viết: “Một bà nhân đức tên là María Mađalêna, vợ quan trấn thủ,

1

106

đã làm nhiều việc thiện ữong tỉnh Phú Yên. Bà còn sáng lập một bệnh xá để chăm sóc tất cả giáo dân và người tân tòng bị chứng bất trị. Trong đám bệnh nhân có mấy người cùi sẵn sàng chịu phép rửa tội, để được sạch trong linh hồn. Mỗi ngày ngưòi ta giảng dạy những điều cần thiết để chuẩn bị chịu phép bí tích ban ơn thánh. Có mấy bổn đạo giúp và dự vào việc giáo huấn” (De Rhodes, Sd.qb2 ch. 18). Bệnh bất trị ở đây đĩ nhiên là bệnh phong, hủi, một thứ bệnh hay lây và người ta rất ghê sợ. Lúc đó mà dựng một bệnh xá cho loại người này thì đáng kể là một việc rất anh hùng, rất bác ái. De Rhodes không cho chúng ta biết bà đã được làm người Kitổ hữu vào năm nào. Còn về cái tên Maria Mađalêna thi cũng không nhất định, bởi vì có lúc bà được gọi là Maria, bà Maria, trùng tên với bà Minh Đức chúng tôi nói ở trên. Để phân biệt hai người, chúng tôi tạm gọi bà là bà Mađalêna. Cùng một thòi kỳ này, Cardim có nói tới một cuộc tranh luận giữa một giáo dân tỉnh Phú Yên và một nhà nho lương dân trước mặt quan trấn thủ tỉnh. Đề tài là sự tin tưởng vào những ngày may ngày rủi, vào năm tốt năm xấu, Đây là một phong tục, một tin dị đoan, phải xem ngày lành tháng tốt để làm việc, ngay cả nhà chúa cũng tin, mỗi khi đem quân đi giao chiến cung phải mở sách xem ngày lành ngày dữ. Đề tài thứ hai giáo dân nêu lên đó là sự tin người ta có ba hồn bảy vía nếu là đàn ông, còn đàn bà thì có những ba hồn chín vía. Kết quả là ông đồ nho chịu khống giải đáp được. Điều cần nói lên ở đây là quan trấn thủ đứng làm ừọng tài, ông cũng phục lý lẽ của Hièmô tên người Kitô hữu. Cardim viết: “Quan trấn thủ nhìn nhận sự thật và rất mực quý trọng đạo ta, nhưng ông không theo vì ông chưa giải quyết được việc riêng của ổng là có số rất đông vợ mọn, nhưng ông để cho bà vợ chính thành Kitô hữu nếu bà muốn và thực ra bà đã tin theo đạo ta và chúng tôi hy vọng chồng bà cũng sẽ theo

cách thức của bà trở lại đạo”. (Cardim, Sd). Với lời lẽ trên đây hình ảnh bà Mađalêna hiện lên rõ rệt hơn. Bà là vợ chính được ông chồng để cho theo Kitô giáo. Còn ông thì ông chi cổ cảm tình với đạo và không tin theo bởi vì ông còn có quá nhiều bà bé. Trong khi đó thì De Rhodes đang ở ưên quãng đường biển dẫn tới Phú Yên. Khi đến Bađay (Xuân Đài?) thuộc về tỉnh Phú Yên thì người ta đã loan báo cho quan trấn thủ biết. Người đứng đâu cai trị vùng này cũng là người Kitô giáo, cả hai ông bà, Benito và Benita. “Viên quan này tức thì thông báo cho quan trấn thủ cả tỉnh biết tôi đã tới Bađay. ông này còn là lương dân nhưng vì phu nhân lúc này đang ở trong phủ chúa, bà là Kitô hữu, lên ông liền phái hai người có thế giá đến đón tôi về tư dinh” (Cardim, Sd). Một yếu tố mối soi sáng bộ mặt bà Mađalêna. Là Kitô hữu nhưng hẳn còn có một chức vụ hay một liên hệ gì với “phủ chúa, bởi vì trong khi ông chồng làm việc ở tinh thì một mình bà đã đi Thuận Hoá ở trong phủ chúa tức Kim Long, Nguyễn Phúc Lan đóng dinh. Cũng nên nhắc là vào thòi này chỉ có đường biển là thuận tiện hơn cả, mà theo đường biển thì gặp rất nhiều nguy cơ như chính De Rhodes cũng đã nói và Cardim ghi lại: “Ngày thứ sáu tuần thánh (năm 1641) sau các lễ nghi thì tôi xuống thuyền đi tỉnh Phú Yên và ngày hôm sau chúng tôi bị một trận bão rất dữ và rất nguy hiểm, làm cho tất cả chúng tôi tưởng là mất hết” (Cardim, Sd). Trong thời gian ở lại đây, giáo sĩ đã rảo khắp các miên trong khu vực của tỉnh này, dạy dỗ, làm phép rửa tội. Thế rồi bà Mađalêna đã từ phủ chúa trở vê Phứ Yên. Lúc này là lúc giáo hội gặp khó khăn. Kể từ năm 1639 ngưòi ta đã trục xuất các giáo sĩ, hiện nay chỉ được phép những người đi theo thương gia người Bồ là được ở lại trong thời gian người Bồ cần buôn bán. ■

1

108

Ông trấn thủ Quảng Nam rất nghiêm khắc. Người giáo dân Kitồ rất xao xuyến lo âu, không biết số phận mình sẽ ra sao. Vì thế vừa về tới nhà, bà đã lên tiếng trấn tĩnh các đạo hữu. Đây là những lời lẽ Cardim ghi lại qua thư của De Rhodes. “Trong khi đó thì từ phủ chúa bà Maria phu nhân quan trấn thủ đã về tới, mà vì người ta phao tin chúa cho bắt bớ đạo thánh ta, nên bà đã đến nhà thờ để tạ ơn Thiên Chúa đã cho bà về nhà an toàn và khuyên dụ các Kitô hữu, bà nói: thưa các anh chị em, anh chị em không biết rằng những chiến sĩ can tràng thì phải anh dũng liều mạng sống vì nhà chúa nhà vua,bởi tin chắc rằng vua chúa sau đó sẽ thưởng mình. Cũng vậy chúng ta phải can tràng liều tính mạng ta vì giáo thuyết chính dáng của Thiên Chúa chúng ta, bênh vực đạo thánh Người: đĩ nhiên Người sẽ thưởng chúng ta, không phải bằng một bổng lộc thế trần và chóng hư chóng nát, nhưng là vinh quang vô tận. Anh chị em không thấy các cha dòng là thầy chúng ta, các ngài kiên trì và vững chí duy trì, bảo vệ và truyền bá đạo thánh của Thiên Chúa chúng ta ư? Công vỉệc lành thánh của các ngài phải thổi thúc chúng ta theo gương bắt chước và đừng nản chí sờn lòng. Bà còn nói nhiều lòi tương tự theo nhiệt tình lớn lao thỏi thúc bà, những lòi này đã ảnh hưởng lớn tới tâm trí tôi đến nỗi tôi tự thấy mình hoàn toàn thêm mạnh mẽ và thêm can đảm để bênh vực thánh danh thày khả kính của chúng ta là đức Giêsu Kitô nhân hậu. Bà cam đảm này sau khi làm các việc đạo đức thì lui về tư dinh và ngày hôm sau bà mời tôi đến dâng thánh lẽ trong nhà nguyện ở trong phủ, tất cả Kitô hữu trong nhà bà đều co mặt. Tôi đã tới và quan trấn thủ đón tôi ở lôi vào. Xong thánh lễ thì các Kitô hữu kéo đến rất đông làm cho tôi phải ở lại bốn ngày; trong thời gian này tôi rửa tội được 90 người, ngoài ra còn có bà gái của quan trấn thủ, Ông rất hài lòng và thoải mái, ồng lớn tiếng tuyên bố mình *

m

ao ước cho tất cả mọi người ừong tỉnh được rửa tội. thể nhưng cho tới đây, Thiên Chúa chưa đánh động lòng ông để cho ông lãnh nhận được điều ông mong muốn cho người khác nhận được. Dĩ nhiên Người còn dùng ông để đặc biệt làm cho đàn chiên được tăng thêm. Sau thòi gian ngắn, tôi từ biệt ông, từ biệt bà Maria và hết các đạo hữu khác ở đây; rồi sau đó tôi vê Đà Nang” (Cardim, Sd). Theo đây thì thấy bà Mađalêna có một phong cách khác người thường, bà ăn nói rất có uy tối, rất oai nghiêm như một người có quyền, một người lớn, khồng những vì là vợ một ông quan lớn mà hơn thế nữa, bà ăn nói tự do phóng khoáng ngay đối vối ông chồng bà. Ngưòi ta không đả động tới công tác hay chức vụ gì của bà trong phủ nhà chúa. Điều chắc chắn là bà hết sức nhiệt tình làm việc cho đạo thánh. Một ngưòi như bà thì không những gia nhân trong nhà mà cả người dân trong tỉnh cũng dễ noi theo gương bằ, nhất là bà không lợi dụng quyền cao chức trọng để làm giầu cho mình, gây thanh thế cho mình, bà chỉ muốn gieo giống đức tin nơi ngưòi đồng bang đồng bào. Còn ông trấn thủ thì vẫn như trên, ông rất có thiện cảm vứi đạo và khuyên bảo người khác tin theo, nhưng phần ông, ông vẫn chưa nhận ánh sáng đức tin. Nhưng quan trấn thủ này khồng trị nhậm lâu ở tỉnh Phú Yên này. Có thể là vào năm 1641 hoặc 1643, ông đã đổi đi nơi khác và một viên quan mới tới cai trị tỉnh Phú Yên. Bởi vì trong thời gian vắng bóng De Rhodes, đã xẩy ra một vụ đáng tiếc, viên quan mới rất ghét Kitô giáo. Số là trước đây khí trở về Macao, De Rhodes đã căn dặn các thày giảng phải chia nhau đi tiếp tục thăm nom giáo dân. Tiếc thay trong số đó đã có mấy người ngã bệnh. Và chỉ sau đó họ mới bắt tay làm việc. De Rhodes viết: “Khi khỏi bệnh, họ chia tay đi các nơi như tôi đã chỉ đinh. Năm người trẩy về phía nam và làm việc rất đắc lực, trong ba tháng rửa tội được hai trăm chín mươi ba người lương dân. Họ thấy không nên hoãn việc này để chờ tôi về. Họ còn

1

110

chuẩn bị nhiều người khác để cho chính tay tôi làm. Việc này cố tiếng vang lớn trong tỉnh Phú Yên, làm cho lương dân áy náy đến thưa với quan trấn thủ mới vê trị nhậm rất ghét giáo dân. Ông ta liền cho đi lùng bắt các thày giảng để trừng phạt. Họ cũng không còn nể bà Mađalêna, có họ với chúa, vợ quan trấn thủ cũ, chúa đã chuyển đi nơi khácỆ Bọn lính xấc láo ập vào nhà, lục soát các phòng để tìm các thày giảng, nhưng may mà các thày không ở trong thành này. Các thày chi có buồn vì đã bỏ lỡ dịp chịu khổ vì đức tin, các thày thích được chết vì đạo hơn là giảng. Bà Mađalêna không buồn phiền vì chịu sỉ nhục đó, nếu vào trường hợp khác thì bà rất bực bội”, ịDe Rhodes, Sd. q.2 ch. 23). Trong bản văn này chúng ta chưa biét ông đã đổi đi làm việc ở tỉnh nào, cũng không rõ vào năm nào, chúng ta chỉ phỏng đoán là vào những năm đã kể trên, nghĩa là vào năm 1641 hoặc 1643. Trái lại về bà Mađalêna, chứng ta được biết thêm về bà, không những bà là vợ ông trấn thủ cũ mà còn “có họ với chúa”. Như khi nói về bà Minh Đức Vương thái phi, ngưòi ta cũng đã mấy làn nói “bà có họ gần vối nhà chúa”, với nghĩa là “thân mẫu của chú nhà chúa” “mẹ của bào đệ nhà chúa”. Ở đây chúng ta cũng có thể hiểu: bà là một công chúa nào đó trong huyết thống nhà chúa. Vào đầu nám 1Ố44, De Rhodes lại tới Đàng Trong và là Tân cuối cùng, ông đã đỉ thăm tỉnh Phú Yên. Nhưng tình hình đã khác, ông trấn thủ cũ bảo vệ giáo dân đã đi nơi khác và một cuộc bắt bớ chèn ép đạo hữu đã xẩy ra. Ông viết: “Chức vụ làm ưấn thủ của ông đã hết nhiệm kỳ, nhà chúa đưa ông về cai quản tỉnh Quảng Nam, còn viên quan được sai tới thay ông ở Phú Yên thì là người ít tỏ ra mộ đạo ta.” (De Rhodes, Sd). Rồi đã xẩy ra vụ bắt bớ các giáo dân, nhất là họ đã đi lùng

bắt thày giảng Đamasô. “Quan trấn thủ nghe theo lời chúng, nên truyền bắt thày, cho người tìm kiếm thày trong nhà các bổn đạo chính yếu, chúng cũng không tha bà cựu trấn thủ, vì theo lời tố cáo, chúng cho là thày ở đây, nhưng mấy ngày trước thày đã bỏ nhà này sau khi thừa hành mấy nhiệm vụ và đã đi nơi khác làm việc phúc âm. Là người nhân đức nên thày đã tiếc vì bỏ lỡ dịp để chịu một sự gì vì Thiên Chúa. Cơn bão táp này không lay chuyển lòng kiên trì của bà cựu trấn thủ. Bà rất can ừàng chịu đựng sự sỉ nhục do việc bọn lính dám phạm tới nhà bà. Hơn nữa, bà làm gương các nhân đức để củng cố tinh thần các Kitô hữu, bà để cho họ tự sử dụng nhà thờ bà đã bỏ công của ra xây dựng, để họ hội họp nhau vào các ngày chủ nhật và ngày lẽ” (De Rhodes, Sd). Đoạn văn trên đây viết năm 1645 nhưng thực ra đã xẩy ra khi De Rhodes không có mặt, như chúng tôi đã nói. Có điều là ở đây chúng ta hiểu biết thêm về vụ hành hung và phạm tới nhà bà cựu trấn thủ. Thực ra họ khống nể nhà bà, đã dám tới lục soát, thế nhưng nhà thờ vẫn được an toàn, không bị tàn phá như trong một vụ bắt bớ sau này. Vè việc quan trấn thủ Phú Yên vào thời này, sử của ta cũng có ghi chép. Phú Yên là một lãnh thổ mới được sát nhập vào đất nước ta từ năm 1611 dưới thời Nguyễn Hoàng, và ông trấn thủ đàu tiên ợ đây là Văn Phong. ‘Tân Hợi năm thứ 54(1611), bắt đầu đặt phủ Phú Yên. Bây giờ quân chiếm thành xâm lấn biên giớiỂ Chúa sai chủ sự là Văn Phong (không rồ họ) đem quân đi đánh lấy được (đất ấy), bèn đặt làm một phủ, cho hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hòa lệ thuộc vào. Nhân sai Văn Phong làm lưu thủ đất ấy”. (ThựcLục, Tb.l; Sd 1, tr.43-44). Tới năm 1629, Văn Phong đồng lõa với người Chiêm Thành làm loạn. Nguyễn Phúc Nguyên phái một phó tưứng đi đánh

1

112

dẹp và cho ông này làm lưu thủ Phú Yên! lại gả công chúa Ngọc Liên cho. “Phó tướng Nguyễn Phúc Vinh (con trưởng Mạc Cảnh Huông, lấy công chúa Ngọc Liên, cho theo quốc tính, sau đổi làm (hệ tính Nguyễn Hữu) đi đánh dẹp yên và lập dinh trấn biên. Vì có công ấy, đặc biệt cho dùng ấn son”. (Thuc LờC, Tb 1; Sd tr.56). (Khi mod mở mang, những nơi đâu địa giới đều gọi là trấn biên) Thế nhưng cho tới những năm 1641-1643, không thấy sử nói gì về việc thuyên chuyển. Chỉ biết rằng từ năm 1629, trấn thủ Phú Yên là Nguyễn Phúc Vinh có phu nhân là công chúa Ngọc Liên, con gái chúa Nguyễn Phúc Nguyên và ông này có đặc ân được dùng ấn son, thường dành riêng cho nhà chúa. Nầư vậy thanh thế và quyền bính của ống này khá lớn, không những là làm phó tướng cai quản một “phủ” ở đầu địa giổi gọi là trấn biên mà còn là rể của nhà chúa. Nhưng cho tới đây, chưa thể hoàn toàn quyết đoán ông này là quan trấn thủ Phú Yên có bà vợ là Kitô hữu. Cadière cũng đã nêu lên vấn đè nhưng chưa dám quả quyết (Cadière, Sd tr.50) Còn về việc chuyển ông về làm “trấn thủ” Quảng Nam thì chắc chắn là chưa chính xác. Nên nhắc lại rằng: trấn thủ Quảng Nam cho tới đây người ta thấy ban đầu là hoàng tử thứ sáu của Nguyễn Hoàng, thứ sậu nhung kể là trưởng như chúng tôi đã nói ở trên, đó là Nguyễn Phúc Nguyên. Khi ông này lên nối vị chúa thì đặt con trưởng là hoàng tử kỳ làm trấn thủ Quảng Nam (1613). Tới khi Kỳ mất (1631) thi đặt hoàng tử thứ ba là Anh. Sau khi Anh phản loạn năm 1635, Nguyễn Phúc Lan đạt một người khác; sau khi đã bắt được Anh đem giết đi. Sử chép: “Chúa hậu thưởng cho Tôn Thất Tuyên. Ban yến để uy lạo chiến sĩ, rồi thăng Bùi Hùng Lương làm trưởng dinh ưấn thủ Quảng Nam”. (Thvc Luc, Tb 3; Sd tr.69). Từ đó không thấy nói việc bổ nhiệm nào khác và như chúng

tôi cũng đã nói, từ ngày hoàng tử Kỳ mất thì giáo hội cũng mất một tay bênh vực rất có thế giá. Trấn thủ mứi từ năm 1635 này tỏ ra ghét Kitô giáo. Các bản văn viết vào thời kỳ này đều nói tới điều đó: người ta thưòtig nhắc tới ông nghè bộ trấn thủ Quảng Nam rất ác cảm với đạo. Vì thế không thể coi cựu trấn thủ Phú Yên lại được về làm trấn thủ Quảng Nam được. Danh từ các giáo sĩ thời đó viết thường chưa được chính xác, bởi vì ứong một tỉnh, một xứ, một phủ thường có nhiều hạng quan lại và như chúng ta đã biết hành chính thời đó rập theo pháp luật thời Hồng Đức nên có ba loại tức tam ty: xá sai ty lo về tư pháp và nội vụ, có ký lục và đô tri, lệnh sử ty lo về quân nhân có nha úy và tướng thần lại ty, coi việc thuê có cai bộ. Trong các nơi nhỏ bé hơn thì chỉ có hai ty. Vậy cựu ừấn thủ Phú Yên được thuyên chuyển vê Quảng Nam hẳn là để giữ một trong ba ty kể trên với chức vụ lớn hơn, chứ không phải là chưởng dinh trấn thủ. (Cadière, Sd.tr.50-51). Chúng ta chưa kết luận vội vã hãy để bà công chúa Ngọc Liên và Nguyễn Phức Vinh trong một nghi vấn. Và chúng ta tiếp tục tìm hiểu bà cựu trấn thủ theo các vãn kiệu của các giáo SI theft đo.

Năm 1644 De Rhodes kể chuyện ông cựu trấn thủ Phú Yên có bà vợ là Kitô giáo thường gọi là bà Mađalêna như sau. “Một việc tương tự đã ngăn cản không cho một quan lớn trong xứ trở lại đạo, riêng tôi rất buồn. Tôi thường nói tới lòng nhiệt thành và sốt sắng của bà Mađalêna. Chồng bà đã làm quan trấn thủ tỉnh Phú Yên và giữ tất cả những chức vụ lớn trong phủ chúa. Bà vừa làm gương trong đời sống, vừa trong lòi giảng dạy, nên rất được giáo dân kính trọng và mộ mến, nhưng khồng ai thuyết phục được ông tin theo ánh sáng dẫn đường vào thiên quốc. Một ngày kia, lúc từ biệt ông, trước mặt bà, tôi nói vối ồng rằng tôi rất không hài lòng thấy ông lâu ngày cưỡng lại thiên Chúa, ông nên liệu giải quyết lấy, nếu không muốn mất linh

1

114

hồn mãi mãi. Ông đã ngoài bát tuần, cuộc đời đâu còn dài, tôi khuyên ông nên nghĩ đến sự chẳng bao giờ qua đi. Ông xúc động về lời đó và bà vợ cũng thêm lời khuyên nhủ với những câu đầy tinh thần dân Thiên Chúa. Ông hoàn toàn phục lẽ và nói với tôi rằng ông sẵn sàng làm hết những gì tôi muốn cho ống làm. Ông bằng lòng trở thành giáo dân và rất buồn vì đã trì hoãn lâu năm như vậy. Nghe lòi đó bà Maria và tôi rất đỗi vui mừng. Chúng tôi đội ơn Thiên Chúa hết lòng và để không hoãn công việc mong đợi từ lâu, chúng tôi kiền bắt đầu giảng dạy để chuẩn bị cho ông chịu phép rửa tội. Tất cả đã sẵn sàng để làm các nghi thức. Tỏi đã mặc áo dòng trắng, nến đã thắp và nước phép cũng có sẵn. Tôi nói với ông về bổn phận giáo dân, trong đó có việc khống được thờ kính bất cứ một thần lương dân nào. Bây giờ ông mới nói với tôi: Ông đã quyết không còn tin vào bất cứ thần đị đoan nào khác nữa, thế nhưng ông không thể bỏ không sùng kính bề ngoài một vị thần mà hết các võ quan điều khiển quân sĩ đều phải sùng kính. Tâm tư ông không còn tin, nhưng nếu ông không làm ra bộ tin thì ông sẽ mất hết cơ nghiệp và rất có thể nguy hại tới tính mệnh, nên ông không thể để mất cả sự nghiệp cả tính mệnh được. Tôi rất sửng sốt, bà vợ ông và tôi hết sức năn ni và khiển trách để ông vượt khó khăn cản đường cứu rỗi. Nhưng ông không bao giờ chịu. Tư lợi đã thắng tâm hồn làm nô lệ cho dục vọng. Thế là chúng tôi phải bỏ hết những việc đã bắt đàu. Ông xin từ tay tôi biên trên mảnh giấy thánh danh Chúa Giesu và đức Trinh nữ Maria và ông hứa sẽ mãi mãi đem theo trong người. Tôi hy vọng việc sùng kính này cùng với led cầu nguyện của người vợ rất nhân đức sẽ được Thiên Chúa ban cho ông những quyết định quảng đại hơn trước khi chết”. (De Rhodes, Hành Trình tr.2 eh.30). Trong bản văn này, có nói tới tuổi của ông “ngoài bát tuần”

và trong một bản văn khác của Saccano nãm 1646 cũng đề cập tới: lúc đó ông đã 83 tuổi thọ. Như vậy là ông sinh năm 1563 năm quý hợi cùng năm sinh của chúa Nguyễn Phúc Nguyên “bố vợ” ông và năm ông lấy bà công chúa Ngọc Liên thì ông đã 66 tuổi thọ (1629-1563). Có thể vì thếmà ông không có con vối công công chúa, nên phải nuôi một con gái nuôi như chúng tôi sẽ nói sau. Trong Tường trình về Đàng Trong, De Rhodes cũng đã viết về việc cựu trấn thủ chưa chịu tin theo đạo. “Viên quan trấn thủ năm ngoái cai trị tỉnh Phú Yên có bà vợ rất nhân đức, bà này có thể sánh về nhiệt tình và đạo hạnh với bất cứ bà lớn nào khác bên trcd Âu của chúng ta. Bà liên tục mong mỏi cho chồng trở lại đạo. Năm nay ông được bổ nhiệm làm quan trấn thủ tỉnh Quảng Nam, nơi có những Kitô hữu tiên khởi của cả nước An nam và ở đây ông đã theo ý bà cho xây cất một nhà thờ ở ngay cạnh tư dinh, để các Kitồ hữu hội nhau vào các ngày lễ và ngày chủ nhật, chính ông thỉnh thoảng cũng đến thờ phượng Thiên Chúa. Khi tôi đến từ biệt ông, thì tôi đã rõ ràng tỏ tâm tình tôi giữ trong lòng là thấy ông đã tới tuổi thọ bát tuần và hơn nữa, thế nhưng cho tới nay vẫn trì hoãn chưa theo đạo là đàng thật, đàng độc nhất cứu rỗi đời đời; bà vợ cũng hết sức sót sắng khuyên dụ ông chịu phép thánh tẩy. Tôi nhận được lời từ lâu mong đợi là ông tự nguyện trao thân trong tay tôi và tôi tùy ý dạy bảo ông. Thế là tôi bắt đâu giảng mấy điêu chính yếu trong đạo, nhưng cần phải tỏ cho ông biết những việc phải làm, những điều ông phải nhận khi thành Kitô hữu. Tôi trình bày sự hư vổ của các thần giả trá và ông phải khinh chê không được thờ cúng. Tôi bắt ông phải hứa giữ những điều tôi giảng giải, đặc biệt không được tin theo hay cúng tế thần phật, nhưng sự hèn nhát đã lôi cuốn ông trở lại đàng sau vì một cơ hội tôi kể sau đây. Theo tục lệ xứ này thì phải cúng thần phật mà họ coi là làm ♦

*•*

1

116

chủ chức vụ, mọi công việc. Vì ông là viên quan võ đệ nhất hạng, ông cũng là người đứng đâu cúng tế dị đoan mê tui, không phải vì tin là sẽ được phù trợ nào, mà chi vì sợ kẻ thù địch tố cáo nơi nhà chúa. Tất cả những lời giảng dạy của chúng tôi không đủ ảnh hưởng tới tâm thần ông, để ông hứa với tôi sẽ bỏ không làm những mê tín này. Tôi đành để ông trong tình trạng khốn đốn và rất tiếc, chỉ bắt ông tự tay viết tên rất thánh Giêsu Maria và khuyên ông nên luôn luôn cầu khán các ngài giúp đỡ. Tôi mong rằng Thiên Chúa sẽ thương ông khi cần, dựa vào sự cần mẫn và săn sóc liên tục của bà vợ rất lành thánh, bà coi sự hèn nhát của ông như một nhát đao đâm vào tâm hồn bà. Tôi cũng thấy tâm hồn tôi bị đâm một nhát dao như vậy, và ước gì nguyên nhân tai họa này khổng phải là vì tội lỗi” (De Rhodes, Sd). Trong hai bản văn có một chút khác nhau, như việc biên thánh danh, Hành Trình nói là chính ông đã xin viết còn trong Tường Trình thì lại do giáo sĩ bắt ông viết. Còn về nỗi lo lắng của ông phó tướng thì cũng dể hiểu thôi. Bởi vì nếu ra trận mà thắng thì không sao, bằng bại thì mọi tội sẽ đổ trên đầu ồng phó tướng. Vào tháng 7 năm 1Ố44, khi xảy ra vụ bắt Anrê Phú Yên và cuộc fra khảo rồi xử tử, De Rhodes đã hết sức chạy chọt các nod để cầu cứu làm sao cho người đệ tử thân yêu của ông thoát khỏi tai nạn. Ông cũng không quên chạy đến với ông phó tướng, cựu trấn thủ Phú Yên Ông viết: “Sau khi đã vận động hết sức với quan tòa mà không được việc gì thì chúng tôi nhờ trung gian quan cựu trấn thủ có bà vợ là Kitô giáo, nhưng ông này tỏ ra sợ sệt, không muốn dính dấp vào vụ này, để mặc cho quan tòa thừa hành lệnh từ phủ đưa tới, ông còn thêm là ồng sợ chúa cho chặt đầu ông bởi vì vợ ông là Kitố hữu. Vậy tất cả vận động và cố gắng lo lắng của chúng tôi đêu vô hiệu”ẵ (De Rhodes, Tường Trình). Không nói rõ nhưng ông cũng để cho chúng ta biết, trong xứ hay ừong tỉnh Quảng Nam này, có nhiều hàng quan lại khác

nhau, như chúng tôi đã nói, có các quan tòa, có ông Nghè Bộ và ông cũng chỉ thuộc về một hàng quan lại cao cấp nào đó. Thế nhưng, ở đây hẳn ông cũng sợ người ta tố cáo ông nơi nhà chúa. Lúc này Nguyễn Phúc Lan bằng lòng cho người ta tin theo đạo kín đáo, “trong lòng”, đừng phô trương ra bề ngoài. Sau khi Anrê Phú Yên đã bị chém đầu chết vì đức tin, thì việc bắt bớ vẫn chưa yên. De Rhodes nói về sáu người bị bắt và có thể bị xử. Ở đây chúng tôi phỏng đoán đã có sự car thiệp của ồng cựu trấn thủ Phú Yên lúc này giữ một chức vụ quan trọng trong dinh Quảng Nam, nhưng khống phải là trấn thủ. Ông viết: “Sáu người vô địch can tràng bị điệu qua các phố, cổ mang gông nặng, làm thành đám rước vui cho thiên đàng và đáng lo sợ cho hỏa ngục. Quan trấn thủ ngần ngại việc bảo vệ các Kitô hữu, nên bàn là cho giải họ về phủ, nhưng ông Nghè Bộ phản đối, ông truyền cho họ Tân này phải bị cạo đầu và bị đánh trượng trên bả vai: Bản án liền được nghiêm khắc thi hành ngay tức khắc”. (De Rhodes, Tường Trình) Chúng ta thấy có sự căng thẳng hay ít ra đối nghịch giữa viên quan tạm gọi là trấn thủ và ông Nghè Bộ: Ông này mới thật là trấn thù bởi vì một đàng ông có sự che chở của nhà chúa qua trung gian Tống Thị như chúng tôi đã nói ở trên, đàng khác việc xử án và ra lệnh bất là ở ông chứ không phải ở viên quan nói trên: ông này “sợ chúa cho chặt đầu vì vợ là Kitô hữu”. Dẫu sao nhờ có một vụ hỏa tai xẩy ra mà ông Nghè Bộ lo sợ và truyền thả các tù nhân, nhưng quan tòa cho người đi triệt hạ các nhà thờ ở Qui Nhơn, Bến Đá và Quảng Ngai. Tới đây lại thấy nói tới bà cựu trấn thủ vì nhờ sự can thiệp của bà mà Qui Nhơn ứánh được sự tàn phá. “Các Kitô hữu ở vùng thứ nhất đã vận động rất khéo, nhờ trung gian bà vợ quan trấn thủ, một bà giáo dân cũ, nên nhà thờ của họ chí bị phá có một nửa, họ hy vọng sẽ sửa chữa lại cho tươm tất, sau khi cơn bão táp qua đi”. (De Rhodes,

1

118

Tường trình). Vào tháng hai năm 1645, có một chiếc tàu Tây bị đánh giạt vào bờ biển Đà nẵng. Đó là chiếc tau chở mấy nữ tu dòng Phan người Tây, các bà dự định tứi Macao lập tu viện nhưng chính quyền người Bồ vì lý do chính trị không cho các bà được phép mở dòng. Để khỏi gây chuyên, họ bằng lòng để cho các bà lấy tàu trở về Manila. Chẳng may có cơn bão biển đánh giạt tàu của họ vào bờ biển Đàng Trong. Theo luật nhà nước ta lúc đó, bắt hết các tàu ngoại quốc vào bến cách bất hợp pháp kể cả trường hợp bị bão đánh giạt đều bị giữ lại và hết các hàng hóa của cải trong tàu đêu bị tịch thu. Trong khi bị giữ lại ở đây, các cha dòng Phan đã tìm cách liên lạc được với De Rhodes. Đồng thời chúa Nguyễn Phúc Lan và bà hoàng hậu cũng muốn tọc mạch muốn xem mặt các nữ tu người Tây. Dẫu sao đây là một dịp cho các Kitô hữu Đàng Trong phấn khỏi. Họ đã thay phiên nhau đến thăm nom và phục dịch. Các bà quyền quý sang trọng đem cho quà bánh. Các nghi thức kinh kệ được giáo dân rất hâm mộ, lần đàu tiên họ được dự và nghe các kinh Latinh do các nữ tu đọc và hát. Riêng hai bà Maria và Mađalêna của chúng ta, các bà cũng không bỏ lỡ cơ hội để tỏ tình quý mến. “Hơn tất cả các bà khác trong xứ, bà Maria Mađalêna, vợ quan trấn thủ, tỏ ra rất trọng quý các “thánh nữ”, tên người ta gọi như vậy. Mỗi ngày bà gởi một món quà mới để tặng, đến thăm thường xuyên và còn cho con gái một của bà đến ở với các nữ tu trong mấy ngày. Cồ này chừng mười ba xuân xanh, đã đem lòng quý mến các nữ tu và khâm phục nhân đức đến nỗi đã quyết định đi theo. Và người ta phải vất vả lắm mới làm cho cô đổi ý định đi theo qua Phi Luật Tân cùng với các nữ tu”. (De Rhodes HT q.2 cn.41). Cha Cadière khi chú giải về những dòng chữ ở trên đã tỏ ra hết sức thán phục bà Mađalêna và thái độ rất Việt Nam của cô con gái vì thấy cách sống lành thánh và từ bỏ mình của các nữ tu nên cũng muốn “đi tu” như trăm nghìn các thiếu nữ nào khác trong xã hội ta, điều này Cadière đã nghiệm thấy trong cuộc

đời tông đồ của mình. ở đây chúng ta thấy bà Mađalêna được tự do đi lại với các nữ tu hơn bà Maria, bà này phải kín đáo và lén lút, hình như đến gặp có một Tân. Sau khi các nữ tu người Tây đã ra đi thì De Rhodes trở vê Quảng Nam và ở nhà bà trấn thủ: “Sau khi các nữ tu ấy đi rồi thì tôi trở về Quảng Nam, ở nhà bà trấn thủ tỉnh này, nơi đây hết sức kín đáo, tôi làm các phép bí tích cho giáo dân, rửa tội cho lương dân”. (De Rhodes: HT). Nên nhắc lại, De Rhodes vẫn dùng danh từ trấn thủ mà là ừấn thủ Quảng Nam, nhưng thực ra như chúng tôi đã nói, ông cựu trấn thủ Phú Yên bây giờ giữ một chức vụ quan lớn trong tỉnh, nhưng không phải là trân thủ theo đúng ỷ nghĩa của danh từ. Mùa chay nãm 1646, giáo sĩ Saccano là người đến thay thế De Rhodes đã bị nhà chúa trục xuất khỏi Đàng Trong, ông viết trong Tường trình về bà cựu trấn thủ như sau: “Ngày thứ tư tuần thánh, không có cách nào ngăn cản các Kitô hữu mừng lễ kính nhớ sự thương khó Chúa Cứu thế vối một nhiệt tình khác thường. Thấy giáo dân tốt lành đổ nước mắt ròng ròng và thở than khóc lóc thì tôi rất sửng sốt và cảm động nhận ra lòng đạo hạnh trìu mến ở những miền man di xa lạ, chưa bao giờ thấy như vậy ở phương tròi Âu chúng ta. Bà phu nhân của quan trấn thủ Quảng Nam, ồng này là bậc vị vọng nhất trong triều đình, bà tỏ ra sốt sấng khác thường, bà tới dự nghi lễ thánh, từ rất xa với rất nhiều bất tiện vào giữa đêm khuya, rồi vội vã ừở về nhà trước khi tảng sáng để cho lương dân không có lý do bàn tán. Lòng bác ái bà đem thi hành trong những của bố thí liên tục là một gương sáng hiếm có. Ngoài các việc từ thiện khác,

1

120

từ khi cha Alexandre trẩy đi, bà còn tự bỏ tiền ra bảo dưỡng thày giảng, các thày đi tới nhiều thôn xóm, vừa giảng dạy giáo dân vừa chinh phục lương dân; hơn nữa bà nới cho làm xong một ngôi nhà, với uy thế và bảo trợ của bà, họ có thể sống yên hàn; cũng ở đây bà cho dựng một nhà nguyện cho cha xử dụng. Cô con gái nuôi của bà, gốc từ một dòng họ quyền quý, cũng theo gương bà trong nhiệt tình đối với đạo, cũng như đối với các nhân đức khác của bà. Cô rất quyết tâm kính mến Thiên Chúa đến nỗi cô đã nhất đinh không bao giừ kết hôn, bao lâu còn sống trên đời này, cô hiến dâng linh hồn và thân xác cho Người; điều hiếm có, nhất là ồ xứ này và nhất là đối với một thiếu nữ con nhà quyền quý, có những người sang trọng vào bậc nhất ở trong nước tỏ ý muốn cầu hôn. Tất cả gia nhân, rất đông, cũng theo gương sáng gia chủ làm các việc đạo đức và năng chịu các phép bí tích. Sau cùng để hoàn tất các nguyện vọng thánh của bà, thì chỉ còn thiếu ông chồng theo Kitô giáo nữa mà thôi. Thực ra ông rất tôn trọng các mầu nhiệm thánh, nhưng tôi khồng biết ông khốn đốn sợ dư luận thế nào làm cho ống còn quyến luyến ngẫu tượng giáo; vì trọng kính ông, tôi thường đến thăm ông và ông tiếp đón tôi rất lịch thiệp, đối xử với chúng tôi vái một lòng thành kính khác thường, bao giờ ông cũng đứng trong suất buổi đàm đạo vả khi từ biệt thì ông lại tha thiết khẩn khoản xin chúng tôi cầu Thiên Chúa cho nhà chúa và cho ông: ồng là một vị lão thành khả kính đã 83 tuổi thọ, ước gì Thiên Chúa mãnh lực ban an thúc đẩy ông dể ông gia nhập hàng ngũ những kẻ phụng thờ người vào cái tuổi gần đất xa trời của ông”. (Saccano, Tường trình ch.8). Về cô con gái 13 tuổi khi bà Mađalêna cho tới ở với các nữ tu, Cadière nói là con gái một của bà và nhân đó ông cho rằng lúc này bà đã 65 tuổi thọ và ông chồng thì 70, vì thế mà ông chồng này đã có nhiều bà vợ mọn. Chúng tôi không thấy chỗ

nào nói về việc này và cũng bỡ ngỡ sao Cadière không đề cập tới bản văn trên đây của Saccano. Ông này viết rõ là cô con gái này là con nuôi và gốc thuộc hàng quyền quí. Khi cô muốn theo các nữ tu người Tây đi Phi Luật Tân mà không được thì bây giờ cô quyết định “tu tại gia”. Cadière cũng đặt giả thuyết, có thể là bà Mađalêna có nhiều con nhưng chúng đã chết non,còn lại có một mình cô 13 tuổi này (Cadière Sd tr.49). Theo các tư liệu kể trên thì ông cựu trấn thủ vướng hai cản ữở lớn một về luân lý và một về chính trị. Ve luân lý, bởi ông còn mắc nhiều vợ con, về chính trị vì ông chưa muốn bỏ lòng thành kính ngẫu tượng bởi ông là tướng lãnh cầm quân, cố nhiên phải đứng đầu việc cúng bái vị thần bảo trợ quân nhân quân sĩ. Ông cũng không muốn mất sự nghiệp và gia tài nhờ vào chức vụ của mình. Dẫu sao ông để cho bà vợ theo Kitô giáo và như vậy kể ra cũng đáng khen rồi. Theo De Rhodes cũng như theo Saccano, chúng ta thấy ông tỏ ra thành kính các giáo sĩ, tôn trọng niềm tin Kitô giáo, rất lịch thiệp và quảng đại. Thế rồi, từ năm 1646, không thấy có tư liệu nào nói về hai ông bà này. Ông mất vào năm nào, cũng không ai đề cập tới. sử của ta như chúng tôi đã nói, không đả động gì tói. Nếu là Nguyễn Phúc Vinh thì ông chỉ được kể một Tân trong Thưc Lục. Cho tới năm 1664,hẳn ống không còn sống, trong bức'thư viết từ Phi Luật Tân về Rôma, kể cuộc bắt đạo xẩy ra ở Đàng Trong từ tháng chạp năm 1664 cho tói tháng hai nãm 1665, người ta được biết về bà Mađalêna như sau; “Ngày kính thánh Toma de Cantorbêri, có một viên quan tới nhà thờ, lấy danh sách các Kitô hữu, cấm họ không được vào. Nhà bà Maria có ông chồng trước đây làm quan trấn tỉnh,bị thiêu rụi, bed vì chúng tìm thấy trong nhà có cỗ ưàng hạt và có hết các đồ trong nhà. Có một trong các quan lại từ phủ tới, y truyền cho các người Nhật phải trao cho y sách, ảnh, tràng hạt với chúng chỉ là chối bỏ đạo ngưòi Bồ. Tất cả đêu nghe theo. Ngày tuần bát nhật thánh Tê vọng, các quan lại Quảng Nam sai người tới lấy ảnh trong nhà thờ.

1

122

Mồng 3 tháng Giêng, trên một trăm Kitô hữu bị bắt, thì tất cả đêu đạp ảnh thánh, trừ 5 người, trong số đó có bà Maria, có ông chồng trước đây đã làm quan tỉnh này. Ngày 29 tháng Giêng, cũng trong tỉnh này, Simêong vổti Vinh Sơn, Gioan, Monica và Agata bị điệu tốiẻ Vì từ chối không chịu đạp ảnh, họ bị kết án, đàn ông thì bị chém cfâu, đàn bà bị voi giày, bà Maria được đặc ân bị án bỏ cho chết đói”. (Theo Cadiềre, Bd tr.59). Lễ thấnh Tôma Cantorbêri là vào ngày 29 thánh Chạp và năm đó là năm 1644, còn ngày bát nhật kể trên là vào ngày mồng hai tháng Giêng năm 1665. Giáo sĩ viết bài này vẫn giữ từ ngữ trở thành như một thứ tên riêng, “quan trấn tỉnh” để chỉ chồng bà Mađalêna, còn gọi là Maria. Một điều nên để ý, theo hiến pháp thời đó, người thuộc huyết thống hoàng tộc thì không được làm đổ máu khi bị án xử tử, do đó bà María thuộc huyết thống nhà chúa, được đặc ân để cho chết đói, cũng là một bằng chứng về nguồn gốc cống chúa của bà. Một đoạn văn dài tường thuật những ngày cuối cùng của bà Maria để rồi sau đó không còn thấy có tư liệu nào nói v'ê bà. “Việc bắt đạo lan tràn và mở rộng thêm cho tới Hội an nơi tôi đang ở, nhà chúa phái người tód bắt các Kitô hữu và để tước đoạt nhà nguyên, ảnh và những đồ dùng thánh khác. Hai ngẩy trọn, họ lục soát nhà các cha dòng Tên chủ ý tìm danh sách cấc Kitô hữu: sau việc lục soát, nhà tôi nhờ ơn Chúa V

*

thương đã thoát, thì các viên quan lại tĩnh Quảng Nam phái hai người thuộc hàng quan tới bắt các cha dòng Tên và cùng với các cha có haỉ cha dòng Capucin từ Thái Lan đi Macao bị giạt ở Đàng Trong, họ để chung tất cả và điệu đi cùng với cha Fuciti lúc đó ở trong phủ và cha Baudet thuộc dòng Tên lúc đó ở Đà Nẵng, họ cắt lính gác nhà chúng tôi đêm ngày,

không kể sáu người khác đứng canh bên ngoài cửa. Ngày hôm sau một toán lính đem theo lệnh các quan tứi nhà thờ hạ bức ảnh đức thánh Trinh nữ xuống, chúng muốn cho những kẻ chối đạo đạp lên trên, nhưng chúng tôi đồng tâm ngăn cản việc phạm thượng đó, thế nhưng chúng như sói dại nhảy bổ tới chúng tôi, giật tóc chúng tôi để dài theo thói tục xứ này, chứng sô chúng tôi ngã xuống và dùng võ lực cướp lấy bức ảnh. “...Những người
*

'

m



thiêu hủy một nhà thờ xinh đẹp bà cho xây cất cách xa Hội An chừng nửa dặm, cùng với nhà bà không cách xa đó là mấy, thành thử bây giờ bà chỉ còn một túp lều tranh, mà khi tôi tới tôi đã đến thăm nhân danh đức Đơ Bêrít và tôi thấy bà rất hài lòng về tình trạng của bà vì noi gương Chúa chúng ta, Đấng mà bà kính mến hết lòng. Nhà chúa phái người tới bắt bà trong túp lều đó, nhưng vì nể công trạng của chồng bà nên người ta không bắt bà phải mang

1

124

gông là một biểu hiệu nhục nhã tối hậu. Những nạn nhân quảng đại này bị gỉải về Quảng Nam, sau khi đã được lãnh nhận phép bí tích giải tội, họ bị kết án tử hình. Người thiếu phụ trẻ tuổi thì bị voi giày cùng với thày giảng người Đàng Ngoài còn những người khác thì bị chém đầu, nhưng Bà Maria vì có lệnh khẩn trương của chúa thì bị giam trong bốn bức tường mói được xây cất để làm việc này, có lính gác để làm cho bà chết đói, bà kiên trì ở đó năm ngày, nhưng sau cùng, không thể nhịn khát được nữa, như bà về sau đã nói vái chúng tôi, thì Thiên Chúa đã cho phép bà nhún nhường hèn yếu xin được ra và bà đã tới tòa quan lại để chối bỏ đức tin như những người khác.Nếu lương dân đắc thắng vì bà sa ngã thì Kitô hữu rất mực buồn phiền, còn chính bà thi bà không ngớt khóc lóc thảm thương. Bà càng đau lòng hơn rất nhfêu khi bà lần tới nhà thờ ban đêm nơi tôi còn ở lại sau khi các cha đòng Tên bị trục xuất, và nài xin được ơn tha thứ vứi những nức nở làm cho đá tảng cũng phải xúc động, trước mặt nhiều Kitô hữu, tôi đã giải tội cho bà, nhưng tôi còn trì hoãn chưa cho bà rước lễ trong một thời gian, để bắt bà trong thời gian đó càng nhận biết cái tội tày đình bà phạm và qua bà giảng dạy cho kẻ khác đã phạm cùng một cái tội chối đạo đó. Mấy ngày trước khi tôi khỏi hành ra đi, khi ngưòi ta đến báo cho tôi biết lệnh trục xuất, thì một lần thứ hai tôi đã giải tội cho bà và cho bà rước lễ cùng với tất cả những người mà tôi đã từ chối, đúng hơn, đã hoãn chưa cho dự vào phép Bí tích cao cả vì cùng một lỗi”. (Cadière, Sá. tr.59-61). Nên biết là các cha dòng Tên bị trục xuất và xuồng tàu ngày mồng 9 tháng 2 năm 1665 và cha Chevreuil thì ba hay bốn tuần sau. (coi: Cadière Sd. tr.61 chú 1) Nhưng rồi sau đó, không ai biết thêm vê bà María này nữa, không biết bà mất trong hoàn cảnh nào, nãm nào. Cũng nên lưu ý là bức thư trích ồ trên đã ghi danh tánh bà trực tiếp bằng tiếng

việt là “Bà Maria”. Hẳn là tên người thòi đó gọi một cách khá thông thường. Để kết luận, chúng ta chưa có những bằng chứng gì để quyết định bà Maria là công chúa Ngọc Liên, phu nhân phó tướng Nguyễn Phúc Vinh, cựu ữắn thủ Phú Yên, như trong Thi: Lục một rân đã nhắc tái ? Cadière đã đặt ra giả thuyết, Phạm Đình Khiêm đã công nhận. Tiếc rằng chúng tôi chưa được đọc bài của nhà văn này. Vậy hãy tạm nhận bà Maria nói trên đây chlnh cà công chúa Ngọc Liên con gái Nguyễn Phúc Nguyên, nối vị Nguyễn Hoàng từ 1615 tới 1635. Nguyễn Phúc Vinh đã mất trước bà còn bà đã sống trong thòi Nguyễn Phúc Lan và Nguyễn Phúc Tân. Bà mất sau năm 1665.

Ông trấn thủ Quảng Bình Nếu chúng tôi không ĩâm thì về ông ừấn thủ Quảng Bình, Cadière chưa nghiên cứu tới. Phạm Đình Khiêm, trong bài nói về công chúa Ngọc Đỉnh, hẳn là đã tìm kiếm các tư liệu để có thể nói về công chúa này. Về phần chúng tôi, vì chưa được đọc bài của Phạm Đình Khiêm, chúng tôi chỉ dựa vào một ít bài của các giáo sĩ thế kỷ 17 để đưa ra một giả thuyết, theo vết chân của người đi trước. Vào tháng Giêng năm 1644, lần thứ năm và là lần cuối cùng như chung tôi đã nói ở trên, De Rhodes tái Đàng Trong. Sau khi làm các chức vụ và nghi lễ tuần thánh ở Hội An và Quảng Nam, thì ông rắp tâm đi một vòng đất nước thăm các Kitô hữu. Ông đã viết khi đến tỉnh Quảng Bình như sau: “Sau khi rảo khắp trung tâm đất nước này, cuối cùng tôi tới tỉnh Quảng Bình, ở sát biên giới Đàng Ngoài có lũy kiên cố chia đôi hai nước. Người Đàng Ngoài thưòng dồn hết lực lượng để chiếm, nhưng đêu vô hiệu. Tồi đến thành phố chính của tỉnh và đem lễ vật đến tặng

1

126

quan trấn. Ông rất niềm nở đón tiếp tôi. Ông nói rất thành thạo về các mầu nhiệm đạo ta, làm cho tôi tưởng xưa kia ông là giáo dân, điều mà không bao giờ ông thú nhận* Ở đây tôi gặp một giáo dân rất nhiệt thành, binh sĩ chuyên nghiệp tên là Phanchicô. Ông sống vứi vợ tên là Têrêxa, cả hai thực hành các nhân đức cao cả”. (De Rhodes, Hành trình, q.2 ch.27). Đây là vào năm 1644. Quan trấn thủ Quảng Bình này là ai, một viên quan rất có thiện cảm, niềm nở đón tiếp giáo sĩ lại rất hiểu biết về Kitô giáo, có thể coi ông như Kitô hữu, thế nhưng ông không bao giờ nhận mình là Kitô hữu. Thật là một sự khó hiểu, một bí ẩn. Theo Thvc Lục người ta được biết như sau. Nam 1623 thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên có một người đã được nhà chúa gả công chúa cho. “Lấy Nguyễn Phúc Kiều (vốn họ Nguyễn, cho theo quốc tính, sau đổi làm [hệ tính] Nguyễn cửa) làm cai đội, coi đội mã cơ. KTêu tù Đông đô đem mật thư của Ngọc Tú về dâng- Chúa rất mừng đặc trao cho chức ấy, rồi gả công chúa Ngọc Đỉnh cho . (Thực Lục, Tb.2, Sd 1, tr 51). Ngọc Tú là con gái Nguyễn Hoàng gả cho con ữai Trịnh Tùng là Trinh Tráng năm 1600. Trịnh Tùng mất nãm 1625 và Ngọc Tú vợ Trịnh Tráng được làm “Tây cung” (Thục lục, Tb 2, Sd tr.50). Lá thư mật này của Ngọc Tú đưa vê cho Nguyễn Phúc Nguyên, hẳn có một nội dung chính trị hay quân sự, không ai biết. Chỉ biết rằng Nguyễn Phúc Kiều bỏ hàng ngũ nhà Trịnh về tới nhà Nguyễn và được tin dùng, lại làm rể chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Đến năm 1633, nghĩa là mười năm sau, Nguyên Phúc Kiêu được bổ nhiệm tTấh thủ Quảng Bình. “Quí dậu năm thứ 20 (1633), mùa thu, tháng 8, triệu trấn thủ Quảng Bình là Tôn Thất Tuấn về, cho Nguyên Phúc Kiều

thay... Kiều đến ứấn, yêu thương thần dân, người đêu tin phục.ế.’\ (Thực Lục Tb 2, Sd 1, tr.65). Cũng trong năm này, “trấn thủ Nguyễn Phúc KTêu xin đổng cọc gỗ để chặn cửa biển”, Trịnh Tráng cho quân tiến mà không được, đành rút lui. Năm 1640 trong trận đánh lấy Bắc Bố Chính, Nguyễn Phúc Kiều lúc đó làm tướng còng với Trương Phúc Phân đã tham dự hiển hách vào trận đại thắng này (Thực Lục Tb 3, Sd 1, tr.71). Trở về với giáo sử, Năm 1647 ở tỉnh Quảng Bình xẩy ra vụ bắt các Kitô hữu, trong số đó có 8 người bị giam, bị trói đem về phủ. Saccano kể: “Lênh thi hành bản án được trao cho quan trấn thủ Quảng Bình, hơn nữa, ông cũng được lệnh bắt các Kitổ hữu và cho một hình phạt để làm gương, tùy ông xét xử. Cũng có một hộp đựng đày di vật thánh và những ảnh nhỏ phải đem đốt cùng một chỗ hành hình, với các sách đạo Thiên Chúa bắt được toong nhà Âu tinh”. (Saccano, Sd). Thái độ của trấn thủ Quảng Bình làm cho chúng ta nghĩ ông chủ ý trì hoãn việc hành hình. Saccano còn viết: "‘Thế fôi bản án phạt các tù nhân lành thánh cũng được triển hạn, bởi vì quan trấn thủ có bổ phận đem ra thi hành, lúc này đang bận lo mấy lễ ngoạỉ đạo”. (Saccano, Sd) Nhưng rồi ba giáo dân đã bi xử, ông già Simon vì tuổi cạo nên chỉ bị đánh đòn rất dữ dằn, và đã bị chặt một ngón tay, ông cũng đã tắt thở mười mấy ngày. Còn Alexi và Âutinh thì bị chém đầu. “Thủ cấp bị bêu trên ngọn cây cọc cao, theo lệnh nhà chúa, như ngưòi ta vẫn thi hành ở đây đốị với những kẻ gian ác. Anh và sách đạo cũng bị đốt; quan trấn thủ là Kitô hữu nhưng chỉ có tên mà thôi, ông không sao ngăn cản được, cũng không sao cứu những người vô tội thoát án tử hình: bởi vì khi ông định hoặc là lán ưánh hoặc là ít ra kéo dài việc thi hành bản án chúa ban ra, thì một viên quan khác thuộc phái

1

128

nhà nho nài nẵng đòi chúa quyết định tmyền phải thỉ hành ổn tử ngay, thế là ông buộc mình phải cho thi hành. Còn vê các sách đạo thì ông truyền không được đốt bàng cách nào khác, mà phải treo lên trên không, ông nói: vì là sách đạo Thiên Chúa, nên không được phép để cho chạm tới đất”. (Saccano, Sá). Không còn giấu giếm che đậy gì nữa, Saccano nói rõ ràng ông trấn thủ Quảng Bình là Kitô hữu. Bởi thế ông đã cố gắng lẩn tránh hay cho triển hạn bản án. Ông cũng tỏ ra muốn cứu các giáo dân bị bắt vô tội, thế nhưng ừong các đồng sự của ông, có người thuộc phái nhà nho chống đối, ông sợ vị truy tố là không tuân lệnh nhà chúa. Thế là ông đành lòng cho chém đầu các đạo hữu. Chúng ta thấy lời lẽ của De Rhodes ưên đây phù hợp vái lời lẽ của Saccano: ông trấn thủ này là người theo Kitô giáo, nhưng vì sợ, vì một lý do nào đó, đã không tỏ mình là Kitô hữu. Thực ra ồ vào địa vị của ông lúc này cũng rất khó xử: là một tướng lãnh có tài thao lược, đã dự nhiêu ừận mạc đanh tiếng đối phó với quân chúa Trịnh, ông đã bày mưu kế củng cố lũy Nhật Lệ* Ông lại là Tể của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, làm việc dưới triều Nguyễn Phúc Lan và sau này dưới thời Nguyễn Phúc Tần. Còn về công chúa Ngọc Đỉnh thực ra không có một lời lẽ nào nói v'ê bà trong các tư liệu chúng ta có. Chúng tôi chỉ phỏng đoán người đàn bà can đảm đã khồng sợ quân lính bao vây để xử các giáo dân noi hành hình đó có thể là bà công ehúa này chăng. Saccano viết: “Có một bà Kitô hữu tỏ làng bác ái và can đảm ở chốn hành hình rộng lớn này: bà tiến đến gần các tù nhân, trải chiếu cho các vị quỳ lên trên, để cho máu không thấín xuống đất và mặc đầu các vị khiêm nhường hết sức từ chối danh dự này, nhưng cuối cùng các vị phải thua sức mạnh của lòng thương mến: bà không sợ sắc lệnh chúa mà viên lục sự vừa mới công bố: hết những ai bị bắt tin theo đạo người Bồ thì

bị chém đầu; thế nhưng không một Kitô hữu nào rút lui hoặc tỏ ra sợ sệt. (Saccano, Sđ). Phải chăng đây là Ngọc Đỉnh công chúa mới có cái gan dạ hay nhờ vào uy thế cùa mình mà làm việc này. Chúng tôi không dám nói gì hơn sử sách, chỉ theo ngưcd trước phỏng đoán. Ngoài ra không biết gì thêm về bà. Trái lại Thực lục còn ghi chép nhiều chiến công của Nguyễn Phúc Kiều. Năm 1648, trận thứ tư theo Trần Trọng Kim: “Thế tử đến dinh Quảng Bình. Trấn thủ Nguyễn Phúc Kiều xin giữ lũy Trường Dục để làm kế cố thủ”. (Thvc Lụcy Tb 3, Sdltr.77) Năm này cũng là năm Nguyễn Phúc Lan mất và Nguyễn Phúc Tần lên kế vị. Nguyễn Phúc Kiều từ chưởng cơ được thăng chưởng dinh (Thục Lục Tb 4, Sd 1, tr.80). Năm 1655, ttận chiến thứnăm theo Trân Trọng Kim, Nguyễn Phúc Kiều cũng tham dự và đứng vào đạo tiên phong (Thực LựCy Tb 4, Sd 1 tr.86). Năm 1656 Thục Lục viết: “Phó tướng thủy sư là Nguyễn Phúc KTêu và tham tướng Tôn Thất Tráng lại đem quân đến cửa Đan Nhai, đánh phá được thủy quân của Trịnh. Võ Văn Thiêm bỏ thuyền chạy. Tống Phúc Khang và Phù Dương đem quân thượng đạo đến xã Hương bộc vây quân Đào Quang Nhiêu. (Trịnh) Ninh đốc xuất các quân đến cứu viện. Quân bọn Phù Dương thua lui về Hà Trung. Kiều bị thương rồi chết (tặng là Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quấn tả quân đô đốc phù tả đô đốc Nghĩa quận công, lập đền thờ ở xã Dương Xuân, cấp cho tự phu 50 người). (The Lục, Tb 4, Sd 1, ư.93). Chúng tôi khổng dám nói gì hơn bởi thiếu tư liệu. Chỉ thấy rằng trong hai người con rể của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Nguyên Phúc Vinh nhiều tuổi hơn Nguyên Phúc Kiều và nếu thực ra ồng này là một Kitô hữu thì phải kể ông là một trong những tướng tá thực thụ các triều nhà Nguyễn buổi đầu đã theo Kitô giáo vổi bà vợ là công chúa Ngọc Đỉnh, cũng là một Kitô

1

130

hữu.

AMDG

Related Documents

Alexandre De Rhodes
January 2021 0
Libro De Alexandre
March 2021 0
Alexandre Dumas
January 2021 0
Prof. Alexandre Cruz
February 2021 0

More Documents from "otimic"